McNamara vs. Rumsfeld, thành công và thất bại
Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ McNamara sau khi từ chức đã tỏ ra hối tiếc về kế sách chiến tranh Việt Nam mà ông là một kiến trúc gia trụ cột. Rumsfeld, cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ trong chính quyền Bush thì không vậy, ngược lại ông còn tự hào về chiến lược của Mỹ ở Iraq mà ông là một sọan giả. Cả hai đều thăng tiến trong công danh sự nghiệp như những ngôi sao.
Robert McNamara, sinh trưởng ở San Francisco năm 1916, thành phố khét tiếng tự do và cấp tiến. Ông tốt nghiệp cử nhân kinh tế Đại Học Berkeley năm 1937, thạc sỹ quản lý kinh doanh Đại Học Havard năm 1939 và trở thành giảng viên ở đây sau đó một năm. Ông tham gia quân đội năm 1943, khi đại chiến thế giiới lần thứ 2 đang diễn ra khốc liệt, và năm 1945 ông giải ngũ với quân hàm Trung Tá. Một năm sau, ông cộng tác làm việc với hãng Ford, và năm 1960 ông trở thành giám đốc đầu tiên của hãng xe hơi Ford không phải là người thuộc dòng họ Ford. Đếc đầu năm 1961, sau khi J.F. Kenedy đắc cử Tổng Thống, ông được mời giữ ghế Bộ Trưởng Quốc Phòng, và trở thành vị Bộ Trưởng Quốc Phòng lâu nhất trong lịch sử cho đến khi ông chính thức từ nhiệm vào đầu năm 1968.
Tiểu sử của Donald Rumsfeld trước khi trở thành Bộ Trưởng Quốc Phòng so với McNamara tuy có nhẹ về bằng cấp nhưng nặng ký về chính trị. Ông Rumsfeld sinh ra và lớn lên ở tiểu bang Illinois, thuộc miền Trung Tây (midwest) bảo thủ. Ông học Luật trường Princeton nhưng chưa tốt nghiệp. Ông đăng ký vào quân chủng Thủy Quân năm 1954 khi ông 22 tuổi và tham gia vào lực lượng dự bị năm 1957. Sau một thời gian làm phụ tá Dân Biểu, năm 1962 ông đắc cử vào Hạ Viện và liên tục tác đắc cử thêm ba lần sau đó. Năm 1970, ông tham gia nội các Nixon với các chức vụ dưới hàng Bộ Trưởng. Năm 1975, ông được Tổng Thống Ford mời nhậm chức Bộ Trưởng Quốc Phòng cho đến hết nhiệm kỳ vào đầu năm 1977. Năm 2001, ông một lần nữa nhậm chức Bộ Trưởng Quốc Phòng trong chính quyền Bush, trở thành vị Bộ Trưởng Quốc Phòng trẻ nhất và già nhất và duy nhất hai lần!
Cả hai vị Bộ Trưởng, công thành danh tọai là thế nhưng cuối cùng bởi hai cuộc chiến mà các ông là những kiến trúc gia quan trọng đã phải ngã ngựa. Ông McNamara ra đi trong lúc cuộc chiến Việt Nam đang đến giai đọan khốc liệt và các cuộc biểu tình phản chiến cũng đang leo thang. Ông Rumsfeld rời lầu Năm góc trong khi chiến sự Iraq còn hỗn mang và lòng dân đã không còn ủng hộ cuộc chiến nữa. Hai cuộc chiến lớn nhất, kéo dài nhất và tốn kém nhất trong lịch sử siêu cường Mỹ kể từ sau chiến tranh Cao Ly đã đi đến chỗ từ thất bại đến bế tắc và hậu quả là người lãnh đạo bộ máy quân sự khổng lồ nhất trong lịch sử nhân lọai phải mất chức.
Ông McNamara từ chức sau khi nhận ra sai lầm trong chiến lược của Mỹ ở Việt Nam. Ông hối hận và tìm cách thuyết phục chính phủ Johnson đừng nghe những gì ông đã nói và kết quả không bất ngờ là không ai nghe ông. Ông khuyến cáo Tổng Thống Johnson đàm phán với Bắc Việt, không gia tăng quân số, và tiến hành Việt Nam hóa chiến tranh. Thất vọng vì không ai nghe, ông tuyên bố từ chức vào cuối năm 1967. Bốn thập niên sau, cuộc chiến Iraq cũng lâm vào ngõ cụt giống chiến tranh Việt Nam vì chính quyền Mỹ đã không tạo được sự đồng thuận trong dân chúng, các chính Đảng và tầng lớp trí thức, đánh mất lòng tin của xã hội trong việc thực hành chiến tranh và thiếu một lộ trình cụ thể, rõ ràng và khả thi trong việc giải quyết chiến trường hay hậu chiến. Trong một đất nước dân chủ, tự do thì một khi dân chúng đã phản đối và mất niềm tin vào một chính sách nào đó mạnh mẽ thì chính quyền phải sớm muộn bỏ cuộc hoặc thay đổi cho dù chính phủ đó có tin là mình đúng đi nữa. Ngay từ khi hai cuộc chiến được bắt đầu, đã có những nghi vấn chính đáng. Sự cố vịnh Bắc Bộ tháng 8 năm1964 khởi đầu cho việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam có nhiều điều hòai nghi giống như những lý do chính quyền Bush đưa ra trước khi tiến đánh Iraq tháng 3 năm 2003 như việc Saddam Hussein có những chương trình chế tạo vũ khí giết người hàng lọat và có liên hệ với Al-Quaeda. Tuy vậy, hai cuộc chiến còn có những lý do khách quan va chủ quan khác nhau đã dẫn đến sự sa lầy.
Để tránh vết xe đổ của các chính quyền tiền nhiệm trong chiến tranh Việt Nam, chính quyền Bush đã có những chính sách khác đi. Trong cuộc chiến Iraq, truyền thông, báo chí bị giới hạn ngặt nghèo. Số quân đưa vào Iraq cũng thấp hơn nhiều so với Việt Nam, chỉ hơn một phần tư một ít, nhằm tránh sự chống đối của dân chúng khi thấy các quan tài phủ cờ Mỹ chở về nước. Nhưng những cải cách trong sách lược chiến tranh này của Tổng Thống Bush lại dẫn đến thất bại khác. Nếu như quân số Mỹ tham chiến ở Việt Nam là thái quá thì ở Iraq lại là bất cập. Số quân dưới 150 ngàn không đủ để bình định một đất nước Iraq rộng gấp hai lần miền nam Việt Nam.
Đến khi làn sóng phản đối chiến tranh Iraq được cụ thể hóa qua cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tháng 11 vừa qua, thay vì các cuộc biểu tình rầm rộ phản chiến những năm 69, 70, thì ông Bush cuối cùng cũng phải nhượng bộ. Nếu như Tổng Thống Bush đổi ngựa giữa dòng thì Tổng Thống Johnson lại gặp phải tính bất kham của con ngựa mà ông cưỡi suốt bốn năm.
Chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ chính phủ Dân Chủ và kết thúc bởi một chính phủ Cộng Hòa. Chiến tranh Iraq thì ngược lại, cuộc chiến bắt đầu với một chính phủ Cộng Hòa và bây giờ đang có những động thái thay đổi sau khi phe Dân Chủ nắm đa số Lưỡng Viện. Rõ ràng, không phải chỉ có đảng Cộng Hòa mới có chiến tranh. Khi quyền lợi và an ninh của nước Mỹ bị đe dọa thì không chỉ có đảng Cộng Hòa mới tỏ ra cương quyết, mạnh mẽ. Dầu vậy, vẫn có những sắc thái, khuynh hướng khác nhau giữa hai đảng trong việc tiến hành chiến tranh. Đảng Cộng Hòa, với nhóm tân bảo thủ (neoconservative) gần như nắm trọn chính sách ngọai giao của chính quyền Bush trong nhiệm kỳ đầu, có khuynh hướng chia thế giới ra hai phe, thiện và ác, chánh và tà, mà thiện và chánh tất phải tiêu diệt ác và tà, dù có khi phải đi ra ngòai phạm vi quyền hạn Hiến Pháp quy định. Còn đảng Dân Chủ vốn nghiêng về giải pháp ngọai giao, tìm sự đồng thuận và nghĩ người cũng giống như mình; nếu mình không thể trừ bỏ được những thói hư xấu trong chính mình thì mình không thể đòi hỏi sự tiêu diệt những cái không tốt của kẻ khác.
Chiến tranh Việt Nam tuy hao tổn về nhân mạng và kinh tế Mỹ nặng nề, nhưng nó lại có thể được xem như sự thóai trào của chủ nghĩa Cộng Sản trên thế giới. Chiến tranh lạnh bắt đầu khỏang mười lăm năm trước chiến tranh Việt Nam thì nó cũng kết thúc khỏang mười lăn năm sau cuộc chiến. Nó báo hiệu trước nước Mỹ sẽ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới. Chiến tranh Iraq ngược lại có thể báo hiệu sự đi xuống trong vị thế siêu cường độc nhất của Mỹ. Trong khỏang mười lăm năm kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ là siêu cường độc nhất trên hành tinh, chiến tranh Iraq diễn ra và nó có thể đóng vai trò bãi lầy làm suy nhược quân sự, chính trị và tinh thần Mỹ và mua thời gian cho một đại cường quốc khác đang đi lên, để rồi khỏang mười lăm năm sau khi cuộc chiến Iraq kết thúc, mà điều đó thì chưa ai đóan được, Mỹ sẽ phải chia sẻ vị thế siêu cường độc nhất của mình.
Xin mượn lời của Đức Giáo Hòang Benedict XVI để kết thúc bài viết. Trong thông điệp hòa bình thường niên, ngài nói: "Các quốc gia không thể vượt qua những giới hạn đạo đức trong cuộc chiến chống khủng bố." Cuộc chiến chống khủng bố, hay chống du kích luôn luôn là cuộc chiến giữa kẻ mạnh và kẻ yếu. Kẻ yếu thì phải dùng những phương pháp dã man, phi pháp để đe dọa, khủng bố các nước văn minh, giàu có, no ấm. Nhưng để chiến thắng, kẻ mạnh không thể dùng những phương pháp tương tự. Đó là hạ sách. Thượng sách chính là nhìn cuộc chiến trong tầm nhìn dài hạn. Nói như Ức Trai trong Bình Ngô Đại Cáo đó là: "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo." Một ngày nào đó, Trung Quốc có thẻ trở thành một siêu cường thứ hai cùng với Mỹ, nhưng nếu người Mỹ quyết tâm chọn binh pháp thượng sách không đánh thành lũy mà đánh vào nhân tâm thì Trung Quốc với chế độ hiện thời chỉ có thể là Sparta, một cường quốc quân sự thời cổ Hy Lạp, còn Mỹ sẽ luôn là Athens, một cường quốc đương thời luôn giữ gìn giá trị tự do, dân chủ làm nền tảng.