Hôm nay,  

Nan Đề Wto: Hội Nhập Trong Nước

1/12/200600:00:00(View: 11005)
-Một vấn đề cho Việt Nam là yêu cầu hội nhập vào luồng trao đổi kinh tế toàn cầu mà một biểu hiện là việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.

Tuy nhiên, Diễn đàn Kinh tế đài RFA kỳ này sẽ nói về một yêu cầu tiên quyết, đó là hội nhập ngay trong nội bộ quốc gia, qua phần trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện sau đây.

Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, để tiếp tục loạt bài tổng kết về kinh tế Việt Nam trong năm 2005 vừa kết thúc và cũng để nêu ra những vấn đề đặt ra cho giai đoạn trước mặt, kỳ này xin đề nghị với ông là chúng ta sẽ đề cập tới yêu cầu hội nhập.

- Nói đến yêu cầu này, người ta đều nghĩ đến việc hội nhập vào luồng trao đổi toàn cầu, trong đó có mục tiêu gia nhập Tổ chức Mậu dịch Thế giới WTO mà năm qua Việt Nam đã bị hụt mất. Xin ông nêu nhận xét sơ khởi về vấn đề này trước khi ta đi sâu vào chi tiết cụ thể.

Chẳng những Việt Nam không kịp gia nhập WTO mà tuần qua, nhật báo Wall Street Journal và sáng viện nghiên cứu The Heritage Foundation tại Hoa Kỳ đã công bố báo cáo hàng năm của họ về Chỉ số Tự do Kinh tế. Họ xếp các nước vào bốn loại, 1) có tự do, 2) cơ bản là có tự do, 3) cơ bản là thiếu tự do, và 4) bị đàn áp. Trên danh mục 157 quốc gia được khảo sát, Việt Nam đứng hàng thứ 142, thuộc loại thấp nhất trong các nước bị liệt vào danh sách "cơ bản là thiếu tự do". So với năm ngoái thì còn tụt năm hạng, tức là đi ngược với trào lưu của thế giới.

Hỏi: Kết quả khảo sát ấy gây ngạc nhiên vì giờ đây mọi người trong nước đều đồng ý với thế giới rằng tự do kinh tế là một điều kiện tất yếu của thịnh vượng và năm qua, kinh tế Việt Nam có tăng trưởng khả quan vậy mà vì sao mức độ tự do lại sút giảm"

- Năm qua, mức độ tự do đo lường ở chính sách ngoại thương của Việt Nam có tăng tiến được chút đỉnh như lại giảm trong nhiều lãnh vực khác như sự can thiệp của chính quyền, chính sách tiền tệ, đầu tư nước ngoài, tài chính và ngân hàng, quyền tư hữu của tư nhân, luật lệ cho tư doanh, v.v… Nếu phân tích cho kỹ, ta thấy ra một nguyên nhân chính của tình trạng tụt hậu ấy là hệ thống quản lý chính sách và lãnh đạo.

Vì vậy mà trước khi nói đến việc hội nhập với thế giới bên ngoài, tôi nghĩ rằng Việt Nam cần giải quyết một ách tắc là hội nhập nội bộ. Nôm na là guồng máy công quyền phải tự hội nhập vào mục tiêu chung của cả quốc gia, là điều thực ra vẫn chưa có tại Việt Nam.

Hỏi: Đây là một vấn đề hơi ngược đời vì người ta thường cho rằng thứ nhất, chính quyền Việt Nam ý thức được yêu cầu hội nhập, thứ hai, chính quyền ấy có quá nhiều quyền hạn. Khi muốn hội nhập vào luồng trao đổi toàn cầu thì chính quyền chỉ việc ra lệnh, các cấp đều phải chấp hành nhằm đạt mục tiêu chung, chứ vì sao ông lại cho rằng chưa có sự hội nhập của guồng máy công quyền vào mục tiêu ấy"

- Tôi thiển nghĩ rằng đây là một sự hiểu lầm lớn nhất trong rất nhiều hiểu lầm của cả dư luận lẫn giới lãnh đạo Việt Nam. Ngườt ta cứ tưởng rằng dưới sự lãnh đạo và cầm quyền thực tế của đảng Cộng sản Việt Nam, đảng cứ ra nghị quyết, rồi chính quyền căn cứ trên đó mà làm luật hoặc ra nghị định là mọi cấp ở dưới đều thống nhất chấp hành. Sự thật lại không như vậy.

Thứ nhất, quyền lực của đảng từ trung ương lại không được cấp đảng ở địa phương thống nhất chấp hành. Người ta cứ tưởng đấy là biểu hiện của nguyên tắc phân quyền hay tản quyền. Thức ra, đấy là biểu hiện của nguyên tắc "phép vua thua lệ làng" về chính sách quốc gia. Thứ hai, về trình độ, chính quyền trung ương, từ Quốc hội, Thủ tướng đến các Bộ cứ nghĩ là chỉ cần ban hành luật lệ là mọi nơi đều áp dụng đồng bộ. Thực ra, chuyện ấy không có vì mỗi nơi lại tùy tiện suy diễn một cách và cùng một đạo luật, người ta có những kết quả bất nhất.

Hỏi: Vì sao lại có hiện tượng nghịch thường là quyền tự do của người dân bị thu hẹp trong khi đảng viên hay viên chức nhà nước lại có quyền tự do suy diễn hay áp dụng mỗi nơi một khác"

- Tôi cho rằng đấy là thuộc tính của đảng Cộng sản, với thứ nhất, quyền hạn rất lớn dành cho các địa phương và thứ hai, trung ương không nắm vững tình hình thực tế ở mọi nơi. Lý do thứ hai là viên chức nhà nước thường cũng là đảng viên và nhờ hệ thống đảng nên không nhất thiết chấp hành chỉ thị ở trên mà thượng cấp cũng khó áp dụng kỷ luật. Sự chòng chéo về quyền lực chính trị và trách nhiệm quản lý là một lý do chính. Đã vậy, và đây là lý do thứ ba, người dân và báo chí chưa có đầy đủ quyền hạn để lên tiếng hoặc phê bình những bất nhất tùy tiện trong bộ máy công quyền. Hậu quả chung là cùng một chính sách kinh tế tài chính hay luật lệ, mỗi nơi lại đạt một kết quả khác. Nói chung, đó là vấn đề về khả năng cai trị, thuật ngữ của giới kinh tế gọi là "governance quality."

Hỏi: Đấy là những nguyên tắc hay giải thích chung, chứ ông có thể đơn cử vài thí dụ cụ thể về hiện tượng ấy không"

- Suốt năm qua, chúng ta đã nghe thấy nhiều cuộc thảo luận trong Quốc hội về Luật doanh nghiệp chung, hoặc Luật đầu tư chung. Đấy là một nỗ lực hội nhập chính sách và áp dụng vào một mục tiêu thống nhất. Xuyên qua các văn bản và tranh luận, ta thấy ngay một hiện tượng nổi bật là mỗi nơi suy diễn một cách với hậu quả là thay vì giản lược hóa tiến trình quyết định bằng luật lệ thống nhất, có nơi lại lập ra nhiều cửa ải mới, tạo ra cơ hội tham nhũng mới. Một thí dụ là việc lập ra 'dịch vụ một cửa', về nguyên tắc là để đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh, khai thuế và có con dấu hành nghề. Thực tế thì một số tỉnh, như Lào Kay có dồn được ba việc vào một khâu, nhưng Dak Lak lại không được như vậy.

Một thí dụ rộng lớn hơn đã được nêu ra trong báo cáo mới nhất của Ngân hàng Thế giới là dù luật lệ được ban hành trên cả nước thống nhất, mỗi nơi lại đạt kết quả một khác. Nói chung, các tỉnh trong Nam, từ thành phố Đà Nẵng đến tỉnh Long An hay Bình Dương đã áp dụng luật lệ thông thoáng và minh bạch hơn nên thu hút đầu tư nhiều hơn, cấp giấy phép kinh doanh và giải thích luật lệ nhanh hơn. Hậu quả là tính bình quân trên dân số từng tỉnh thì Bình Dương chẳng hạn tiếp nhận đầu tư nước ngoài cao hơn 13 lần tỉnh Hà Tây là nơi mà tư doanh không được chính quyền khuyến khích nâng đỡ như ở nhiều nơi khác. Ngay ở trong Nam, thành phố Đà Nẵng cũng hơn hẳn thành phố Huế.

Hỏi: Những địa phương ông nêu làm thí dụ đều có vị trí địa dư hay tiềm năng khác nhau thì đâu có thể chứng minh là nguyên do nằm ở những yếu tố khác"

- Tình hình nói trên là do cuộc khảo sát của Ban Quản lý Kinh tế Trung ương và Cơ quan Viện trợ Đức cùng thực hiện tại bảy tỉnh. Tiêu chí đặt ra cho các tỉnh là phải cấp giấy phép trong thời hạn 15 ngày thì 67% các doanh nghiệp tại Hà Tây cho biết họ nhận giấy phép sau thời hạn. Vấn đề vì vậy không nằm ở tài nguyên hay vị trí địa dư. Nói chung, ta có nhiều cuộc khảo sát của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á cho thấy có sự cao thấp trong khả năng phục vụ của các tỉnh.

Hỏi: Vậy thì nguyên nhân là ở chỗ khả năng chuyên môn cao thấp khác nhau của từng địa phương hay còn vì lý do gì khác"

- Trình độ chuyên môn có thể là một vấn đề khiến mức độ cạnh tranh trong nội bộ mỗi nơi lại mỗi khác để cải thiện môi trường sinh hoạt cho dân chúng. Nhưng ngoài lý do khả năng thì còn phải kể đến nhiều lý do khác.

Thứ nhất là mức độ minh bạch trong chính sách luật lệ hay về tiến trình quyết định của bộ máy địa phương cũng có khác nên người dân không được bảo vệ đồng đều. Có minh bạch thì trách nhiệm mới được phân giải rõ ràng.

Một lý do thứ ba tôi thiển nghĩ là còn quan trọng hơn đó là ý thức của các giới chức địa phương về vai trò của tư doanh, hoặc rộng lớn hơn, về quyền dân. Những nơi mà bộ máy công quyền có vẻ thông thoáng hữu hiệu nhất cũng là những nơi mà viên chức nhà nước biết nâng đỡ tư doanh thay vì nghi ngờ tư doanh hoặc còn giữ thái độ quan liêu cửa quyền.

Hỏi: Bây giờ mình sẽ chuyển qua phần giải pháp cho vấn đề. Theo ông nghĩ, nếu như chính quyền Việt Nam thực tâm muốn cải cách để hội nhập guồng máy hành chính của mình vào mục tiêu chung thì họ có thể làm những gì"

- Các tổ chức quốc tế có nêu ra nhiều giải pháp cho loại vấn đề ấy. Một việc mà Việt Nam đã nói đến và đã được viện trợ để tiến hành từ hơn 10 năm nay là cải cách hành chính. Đây là một trách nhiệm của Ban Tổ chức Chính quyền Trung ương. Việc cải cách này có được tiến hành nhưng vẫn quá chậm và gần như năm nào cũng được khuyến cáo.

Ngay trước mắt, vấn đề đặt ra là làm sao cho chính các viên chức công quyền muốn thi hành việc đó. Đây không phải là chuyện đơn giản vì nhiều người thấy rằng việc chấp hành và suy diễn luật lệ lại thu hẹp quyền hạn và khả năng của họ, kể cả khả năng tham nhũng.

Hỏi: Quả thật như vậy, nếu ai ai cũng phải chấp hành luật lệ như nhau thì nhiều người sẽ mất cơ hội kiếm chác và đấy cũng là một nguyên do vì sao tham nhũng mới dễ nảy sinh. Như vậy, làm sao các cấp chính quyền lại chịu thi hành một việc họ cho là bất lợi cho bản thân"

- Minh bạch hóa luật lệ và tiến trình quyết định để mọi người đều biết rõ trách nhiệm và quyền hạn là một việc cần có thể đáp ứng yêu cầu đó. Rộng lớn hơn, người ta cần công khai hóa mọi chuyện, thí dụ như thứ bậc cao thấp của từng địa phương, từng ngành trong việc yểm trợ dân chúng và chấp hành luật lệ hầu người dân biết rõ và có quyền lên tiếng về tình trạng ấy. Tức là mọi người đều phải có quyền tự do thông tin và phát biểu. Tự do thông tin, tự do báo chí và tự do tiếp cận mọi nguồn thông tin là một bước cần thiết của việc minh bạch hóa.

Hỏi: Tuy nhiên, khách quan mà nói thì cũng có những địa phương yếu kém nghèo nàn và cần được chính quyền trợ giúp qua ngân sách quốc gia. Ông có nghĩ rằng đấy cũng là một giải pháp thực tế hay không"

- Trong cải cách hành chính, ta có một khâu quan trọng chính là thủ tục ngân sách, chuẩn chi và thanh toán để san xẻ tài nguyên từ các tỉnh giàu có đến các tỉnh nghèo. Tuy nhiên, ta phải thực tế nhìn ra phản tác dụng nếu các tỉnh nghèo được tài trợ nhiều hơn hầu cải tiến hạ tầng vật chất và xã hội cho địa phương mình. Phản tác dụng là vì càng được trợ giúp, người ta càng chậm thay đổi. Cho nên, dư luận người dân và báo chí phải được biết về tình hình ấy hầu tạo ra áp lực thay đổi.

Kết luận ở đây là không thể chỉ trông chờ vào thiện chí cải cách của chính quyền mà phải cho người dân có quyền phê phán để giới hữu trách phải chịu trách nhiệm trước quốc dân.

Và nếu nhớ đến bàn tay vô hình của đảng trong các quyết định về chính sách và nhân sự, thì việc minh bạch hóa tiến trình chính trị trong đảng cũng là một yêu cầu thực tế, là điều nhiều đảng viên chờ đợi từ Đại hội đảng khóa X trong năm nay.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.