Hôm nay,  

Nan Đề Wto: Hội Nhập Trong Nước

12/01/200600:00:00(Xem: 10999)
-Một vấn đề cho Việt Nam là yêu cầu hội nhập vào luồng trao đổi kinh tế toàn cầu mà một biểu hiện là việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.

Tuy nhiên, Diễn đàn Kinh tế đài RFA kỳ này sẽ nói về một yêu cầu tiên quyết, đó là hội nhập ngay trong nội bộ quốc gia, qua phần trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện sau đây.

Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, để tiếp tục loạt bài tổng kết về kinh tế Việt Nam trong năm 2005 vừa kết thúc và cũng để nêu ra những vấn đề đặt ra cho giai đoạn trước mặt, kỳ này xin đề nghị với ông là chúng ta sẽ đề cập tới yêu cầu hội nhập.

- Nói đến yêu cầu này, người ta đều nghĩ đến việc hội nhập vào luồng trao đổi toàn cầu, trong đó có mục tiêu gia nhập Tổ chức Mậu dịch Thế giới WTO mà năm qua Việt Nam đã bị hụt mất. Xin ông nêu nhận xét sơ khởi về vấn đề này trước khi ta đi sâu vào chi tiết cụ thể.

Chẳng những Việt Nam không kịp gia nhập WTO mà tuần qua, nhật báo Wall Street Journal và sáng viện nghiên cứu The Heritage Foundation tại Hoa Kỳ đã công bố báo cáo hàng năm của họ về Chỉ số Tự do Kinh tế. Họ xếp các nước vào bốn loại, 1) có tự do, 2) cơ bản là có tự do, 3) cơ bản là thiếu tự do, và 4) bị đàn áp. Trên danh mục 157 quốc gia được khảo sát, Việt Nam đứng hàng thứ 142, thuộc loại thấp nhất trong các nước bị liệt vào danh sách "cơ bản là thiếu tự do". So với năm ngoái thì còn tụt năm hạng, tức là đi ngược với trào lưu của thế giới.

Hỏi: Kết quả khảo sát ấy gây ngạc nhiên vì giờ đây mọi người trong nước đều đồng ý với thế giới rằng tự do kinh tế là một điều kiện tất yếu của thịnh vượng và năm qua, kinh tế Việt Nam có tăng trưởng khả quan vậy mà vì sao mức độ tự do lại sút giảm"

- Năm qua, mức độ tự do đo lường ở chính sách ngoại thương của Việt Nam có tăng tiến được chút đỉnh như lại giảm trong nhiều lãnh vực khác như sự can thiệp của chính quyền, chính sách tiền tệ, đầu tư nước ngoài, tài chính và ngân hàng, quyền tư hữu của tư nhân, luật lệ cho tư doanh, v.v… Nếu phân tích cho kỹ, ta thấy ra một nguyên nhân chính của tình trạng tụt hậu ấy là hệ thống quản lý chính sách và lãnh đạo.

Vì vậy mà trước khi nói đến việc hội nhập với thế giới bên ngoài, tôi nghĩ rằng Việt Nam cần giải quyết một ách tắc là hội nhập nội bộ. Nôm na là guồng máy công quyền phải tự hội nhập vào mục tiêu chung của cả quốc gia, là điều thực ra vẫn chưa có tại Việt Nam.

Hỏi: Đây là một vấn đề hơi ngược đời vì người ta thường cho rằng thứ nhất, chính quyền Việt Nam ý thức được yêu cầu hội nhập, thứ hai, chính quyền ấy có quá nhiều quyền hạn. Khi muốn hội nhập vào luồng trao đổi toàn cầu thì chính quyền chỉ việc ra lệnh, các cấp đều phải chấp hành nhằm đạt mục tiêu chung, chứ vì sao ông lại cho rằng chưa có sự hội nhập của guồng máy công quyền vào mục tiêu ấy"

- Tôi thiển nghĩ rằng đây là một sự hiểu lầm lớn nhất trong rất nhiều hiểu lầm của cả dư luận lẫn giới lãnh đạo Việt Nam. Ngườt ta cứ tưởng rằng dưới sự lãnh đạo và cầm quyền thực tế của đảng Cộng sản Việt Nam, đảng cứ ra nghị quyết, rồi chính quyền căn cứ trên đó mà làm luật hoặc ra nghị định là mọi cấp ở dưới đều thống nhất chấp hành. Sự thật lại không như vậy.

Thứ nhất, quyền lực của đảng từ trung ương lại không được cấp đảng ở địa phương thống nhất chấp hành. Người ta cứ tưởng đấy là biểu hiện của nguyên tắc phân quyền hay tản quyền. Thức ra, đấy là biểu hiện của nguyên tắc "phép vua thua lệ làng" về chính sách quốc gia. Thứ hai, về trình độ, chính quyền trung ương, từ Quốc hội, Thủ tướng đến các Bộ cứ nghĩ là chỉ cần ban hành luật lệ là mọi nơi đều áp dụng đồng bộ. Thực ra, chuyện ấy không có vì mỗi nơi lại tùy tiện suy diễn một cách và cùng một đạo luật, người ta có những kết quả bất nhất.

Hỏi: Vì sao lại có hiện tượng nghịch thường là quyền tự do của người dân bị thu hẹp trong khi đảng viên hay viên chức nhà nước lại có quyền tự do suy diễn hay áp dụng mỗi nơi một khác"

- Tôi cho rằng đấy là thuộc tính của đảng Cộng sản, với thứ nhất, quyền hạn rất lớn dành cho các địa phương và thứ hai, trung ương không nắm vững tình hình thực tế ở mọi nơi. Lý do thứ hai là viên chức nhà nước thường cũng là đảng viên và nhờ hệ thống đảng nên không nhất thiết chấp hành chỉ thị ở trên mà thượng cấp cũng khó áp dụng kỷ luật. Sự chòng chéo về quyền lực chính trị và trách nhiệm quản lý là một lý do chính. Đã vậy, và đây là lý do thứ ba, người dân và báo chí chưa có đầy đủ quyền hạn để lên tiếng hoặc phê bình những bất nhất tùy tiện trong bộ máy công quyền. Hậu quả chung là cùng một chính sách kinh tế tài chính hay luật lệ, mỗi nơi lại đạt một kết quả khác. Nói chung, đó là vấn đề về khả năng cai trị, thuật ngữ của giới kinh tế gọi là "governance quality."

Hỏi: Đấy là những nguyên tắc hay giải thích chung, chứ ông có thể đơn cử vài thí dụ cụ thể về hiện tượng ấy không"

- Suốt năm qua, chúng ta đã nghe thấy nhiều cuộc thảo luận trong Quốc hội về Luật doanh nghiệp chung, hoặc Luật đầu tư chung. Đấy là một nỗ lực hội nhập chính sách và áp dụng vào một mục tiêu thống nhất. Xuyên qua các văn bản và tranh luận, ta thấy ngay một hiện tượng nổi bật là mỗi nơi suy diễn một cách với hậu quả là thay vì giản lược hóa tiến trình quyết định bằng luật lệ thống nhất, có nơi lại lập ra nhiều cửa ải mới, tạo ra cơ hội tham nhũng mới. Một thí dụ là việc lập ra 'dịch vụ một cửa', về nguyên tắc là để đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh, khai thuế và có con dấu hành nghề. Thực tế thì một số tỉnh, như Lào Kay có dồn được ba việc vào một khâu, nhưng Dak Lak lại không được như vậy.

Một thí dụ rộng lớn hơn đã được nêu ra trong báo cáo mới nhất của Ngân hàng Thế giới là dù luật lệ được ban hành trên cả nước thống nhất, mỗi nơi lại đạt kết quả một khác. Nói chung, các tỉnh trong Nam, từ thành phố Đà Nẵng đến tỉnh Long An hay Bình Dương đã áp dụng luật lệ thông thoáng và minh bạch hơn nên thu hút đầu tư nhiều hơn, cấp giấy phép kinh doanh và giải thích luật lệ nhanh hơn. Hậu quả là tính bình quân trên dân số từng tỉnh thì Bình Dương chẳng hạn tiếp nhận đầu tư nước ngoài cao hơn 13 lần tỉnh Hà Tây là nơi mà tư doanh không được chính quyền khuyến khích nâng đỡ như ở nhiều nơi khác. Ngay ở trong Nam, thành phố Đà Nẵng cũng hơn hẳn thành phố Huế.

Hỏi: Những địa phương ông nêu làm thí dụ đều có vị trí địa dư hay tiềm năng khác nhau thì đâu có thể chứng minh là nguyên do nằm ở những yếu tố khác"

- Tình hình nói trên là do cuộc khảo sát của Ban Quản lý Kinh tế Trung ương và Cơ quan Viện trợ Đức cùng thực hiện tại bảy tỉnh. Tiêu chí đặt ra cho các tỉnh là phải cấp giấy phép trong thời hạn 15 ngày thì 67% các doanh nghiệp tại Hà Tây cho biết họ nhận giấy phép sau thời hạn. Vấn đề vì vậy không nằm ở tài nguyên hay vị trí địa dư. Nói chung, ta có nhiều cuộc khảo sát của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á cho thấy có sự cao thấp trong khả năng phục vụ của các tỉnh.

Hỏi: Vậy thì nguyên nhân là ở chỗ khả năng chuyên môn cao thấp khác nhau của từng địa phương hay còn vì lý do gì khác"

- Trình độ chuyên môn có thể là một vấn đề khiến mức độ cạnh tranh trong nội bộ mỗi nơi lại mỗi khác để cải thiện môi trường sinh hoạt cho dân chúng. Nhưng ngoài lý do khả năng thì còn phải kể đến nhiều lý do khác.

Thứ nhất là mức độ minh bạch trong chính sách luật lệ hay về tiến trình quyết định của bộ máy địa phương cũng có khác nên người dân không được bảo vệ đồng đều. Có minh bạch thì trách nhiệm mới được phân giải rõ ràng.

Một lý do thứ ba tôi thiển nghĩ là còn quan trọng hơn đó là ý thức của các giới chức địa phương về vai trò của tư doanh, hoặc rộng lớn hơn, về quyền dân. Những nơi mà bộ máy công quyền có vẻ thông thoáng hữu hiệu nhất cũng là những nơi mà viên chức nhà nước biết nâng đỡ tư doanh thay vì nghi ngờ tư doanh hoặc còn giữ thái độ quan liêu cửa quyền.

Hỏi: Bây giờ mình sẽ chuyển qua phần giải pháp cho vấn đề. Theo ông nghĩ, nếu như chính quyền Việt Nam thực tâm muốn cải cách để hội nhập guồng máy hành chính của mình vào mục tiêu chung thì họ có thể làm những gì"

- Các tổ chức quốc tế có nêu ra nhiều giải pháp cho loại vấn đề ấy. Một việc mà Việt Nam đã nói đến và đã được viện trợ để tiến hành từ hơn 10 năm nay là cải cách hành chính. Đây là một trách nhiệm của Ban Tổ chức Chính quyền Trung ương. Việc cải cách này có được tiến hành nhưng vẫn quá chậm và gần như năm nào cũng được khuyến cáo.

Ngay trước mắt, vấn đề đặt ra là làm sao cho chính các viên chức công quyền muốn thi hành việc đó. Đây không phải là chuyện đơn giản vì nhiều người thấy rằng việc chấp hành và suy diễn luật lệ lại thu hẹp quyền hạn và khả năng của họ, kể cả khả năng tham nhũng.

Hỏi: Quả thật như vậy, nếu ai ai cũng phải chấp hành luật lệ như nhau thì nhiều người sẽ mất cơ hội kiếm chác và đấy cũng là một nguyên do vì sao tham nhũng mới dễ nảy sinh. Như vậy, làm sao các cấp chính quyền lại chịu thi hành một việc họ cho là bất lợi cho bản thân"

- Minh bạch hóa luật lệ và tiến trình quyết định để mọi người đều biết rõ trách nhiệm và quyền hạn là một việc cần có thể đáp ứng yêu cầu đó. Rộng lớn hơn, người ta cần công khai hóa mọi chuyện, thí dụ như thứ bậc cao thấp của từng địa phương, từng ngành trong việc yểm trợ dân chúng và chấp hành luật lệ hầu người dân biết rõ và có quyền lên tiếng về tình trạng ấy. Tức là mọi người đều phải có quyền tự do thông tin và phát biểu. Tự do thông tin, tự do báo chí và tự do tiếp cận mọi nguồn thông tin là một bước cần thiết của việc minh bạch hóa.

Hỏi: Tuy nhiên, khách quan mà nói thì cũng có những địa phương yếu kém nghèo nàn và cần được chính quyền trợ giúp qua ngân sách quốc gia. Ông có nghĩ rằng đấy cũng là một giải pháp thực tế hay không"

- Trong cải cách hành chính, ta có một khâu quan trọng chính là thủ tục ngân sách, chuẩn chi và thanh toán để san xẻ tài nguyên từ các tỉnh giàu có đến các tỉnh nghèo. Tuy nhiên, ta phải thực tế nhìn ra phản tác dụng nếu các tỉnh nghèo được tài trợ nhiều hơn hầu cải tiến hạ tầng vật chất và xã hội cho địa phương mình. Phản tác dụng là vì càng được trợ giúp, người ta càng chậm thay đổi. Cho nên, dư luận người dân và báo chí phải được biết về tình hình ấy hầu tạo ra áp lực thay đổi.

Kết luận ở đây là không thể chỉ trông chờ vào thiện chí cải cách của chính quyền mà phải cho người dân có quyền phê phán để giới hữu trách phải chịu trách nhiệm trước quốc dân.

Và nếu nhớ đến bàn tay vô hình của đảng trong các quyết định về chính sách và nhân sự, thì việc minh bạch hóa tiến trình chính trị trong đảng cũng là một yêu cầu thực tế, là điều nhiều đảng viên chờ đợi từ Đại hội đảng khóa X trong năm nay.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi còn tại chức, không ít lần, T.T Nguyễn Xuân Phúc đã khiến cho dân tình hoang mang hay bối rối khi nghe những câu chữ rất lạ kỳ: “Quảng Ninh là đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Vĩnh Phúc sẽ vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Long An phải trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Hải Phòng là đầu tàu quan trọng của cả nước’, ‘Bình Dương phải là đầu tàu phát triển kinh tế mạnh nhất của cả nước …”
Nhưng 64 năm sau (1960-2024), đảng đã thoái hóa, biến chất. Đảng viên thì tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống tự diễn biến và tự chuyển hóa, bài bác Chủ nghĩa Mác-Lênin và cả “tư tưởng Hồ Chí Minh” nữa...
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.