Hôm nay,  

HOẠT-ĐỘNG BÍ-MẬT CỦA “AATTV”

7/29/201710:50:00(View: 17713)

HOẠT-ĐỘNG BÍ-MẬT CỦA “AATTV”

Tác-giả: Chân Quê

 

Tính đến nay là hơn 7 tháng gia-đình “Chân Quê” đã về Úc nghỉ hưu, ngày Anzac Day 25 tháng 4, 2017 là lần đầu tiên chúng tôi được tỏ lòng tri-ân đến các cựu chiến binh Úc thuộc phi-đoàn 35 Vận Tải (No.35 Transport Squadron); tiền-thân là phi-đội-cơ Caribou.  Họ đã đến Vũng-Tàu và đồn trú tại Luscombe Field gần căn-cứ Núi Đất vào tháng 8, năm 1964; lấy “nick name” là “Wallaby Airline”.  (Wallaby là tên gọi của con Kangaroo loại nhỏ).  Nhiệm-vụ chính của phi-đoàn này là tiếp-tế cho các trại Biệt-Kích Mỹ ở vùng 2 và vùng 3 chiến-thuật cũng như cho các toán cố-vấn Úc của “AATTV” ở vùng Tây-Nguyên.

 

Bài tường thuật của ký-giả Trev Benneworth về Anzac Day 2017 trên trang báo điện-tử “radschool.org.au” có nói về sự đóng góp hiện-kim và âm-nhạc giúp vui hoàn-toàn bằng Anh-ngữ của gia-đình ca-nhạc-sĩ Diamond Bích-Ngọc, Thái-Nguyên & Tom-Sĩ-Lê trong “Ngày Liên-Quân Úc-Đại-Lợi và Tân-Tây-Lan – 2017”; không ngoài mục-đích tỏ lòng tri-ân đến các cựu đồng-minh Úc.

  

blank

 

Quý đọc giả cũng có thể xem lại bài viết về Anzac Day trong “Link”: https://vietbao.com/a265985/ngay-25-thang-tu-2017-gia-dinh-chan-que-tri-an-cuu-chien-binh-uc

 

Xin nhắc lại là từ năm 2006 đến 2016, gia-đình “Chân Quê” đã liên-tục tổ-chức hằng năm tiệc Vinh-Danh cựu quân-nhân QL/VNH và Hoa-Kỳ từ California đến tiểu-bang Minnesota, USA. Vì thế, khi qua đến Úc chúng tôi đang lo-liệu tổ chức tiệc Vinh-Danh cựu chiến binh Úc và VNCH vào cuối tháng 8 này với chủ-đề là “Bridging the Gap” – Nhịp Cầu Nối Kết Cựu Chiến Binh Úc & Việt.

 

Duyên may đưa đến, qua sự giới-thiệu của cựu Quân-Y: Nguyễn-Văn-Vân (bạn ông chủ Farm Nguyễn-Nhiều); chúng tôi được diện-kiến và tiếp-xúc với vị chủ-tịch Hội Cựu-Quân-Nhân Quân-Lực-Việt-Nam-Cộng-Hòa tiểu-bang Queensland, Úc-Châu; ông Huỳnh-Bá-Phụng; cựu Đại-Úy Tình-Báo Chiến-Đoàn 1 của Úc, một nhân-vật rất cương-lĩnh và anh-minh chính-trực; do vậy các hội-viên đều rất kính mến và quý phục ông.  Chúng tôi như được chắp cánh cho ước mơ được làm một điều gì đó để tạ-ơn các cựu-quân-nhân QLVNCH tại Úc khi được đích thân ông Huỳnh-Bá-Phụng và phu-nhân là chị Bích-Vân vui mừng đón tiếp và đưa đi thăm tượng đài Chiến-Sĩ Việt & Úc tại Roma St, Parkland, Brisbane trong một ngày nắng đẹp, thời-tiết vô cùng ấm-áp (dù nước Úc đang ở vào giữa mùa đông).

 

Được biết Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt – Úc (Australian – Vietnamese Memorial Monument Building Fund Inc) do hai vị đồng chủ-tịch là ông Huỳnh Bá Phụng và ông Bill Marshall (Chủ-Tịch Hội Cựu Chiến Binh Úc) thành-lập ngày 10 tháng 4, năm 2001.  Trải qua bao nhiêu khó-khăn, gian-nan & trắc trở nhưng chính vì nhờ vào sự kiên-trì và lòng thành tâm của ông Huỳnh-Bá-Phụng cùng các cựu-quân-nhân QLVNCH và những mạnh-thường-quân  ở Brisbane; vì muốn lưu lại một di tích lịch sử cho thế-hệ ngàn đời sau cần biết về công ơn của quân-đội đồng-minh Úc-Đại-Lợi và Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa nên mãi đến ngày 16 tháng 9 năm 2005, bà Anne Bligh MP  (Phó Thủ Hiến, kiêm Bộ-Trưởng Tài-Chánh, Bộ-Trưởng Bộ Phát-Triển, Thương-Mại và Thiết-Kế, đại diện cho ông Thủ-Hiến Peter Beattie thời bấy giờ) cùng ông Huỳnh-Bá- Phụng và ông Alan Cunningham mới cắt băng khánh thành tượng đài.  Quan khách gồm nhiều chức sắc dân-cử và trên 700 người tham-dự, ai ai cũng được trân-trọng cầm trên tay hai lá cờ nhỏ Úc & Việt-Nam-Cộng-Hòa.

 

blank  

Tượng Đài Tưởng-Niệm Chiến-Sĩ Việt & Úc ở thành-phố Brisbane, tiểu-bang Queensland. Úc-Đại-Lợi

 

Và, sáng thứ Bảy 29 tháng 7, 2017 hôm nay, gia-đình “Chân Quê” lại được hân hạnh đi dự lễ 55 năm ngày “AATTV” đến tham-chiến Việt-Nam tại Kokoda Barracks Beechmont Rd, thuộc tỉnh Canungra qua lời mời của ông Huỳnh-Bá-Phụng.  Trại lính Úc Kokoda cách miền Nam thành-phố Brisbane khoảng 60 cây số, tọa-lạc trên thượng nguồn của thung-lũng sông Coomera, vị trí nằm giữa hai trang trại Darlington và Beechmont.  Kokoda Barracks được thành-lập vào năm 1942 cho quân-đội Úc thực-tập tác-chiến trong rừng rậm.  Trại đã có thời-gian đóng cửa từ năm 1948 đến 1954.  Sáu năm sau, từ thập-niên 60 đến 70; thời-gian chiến-tranh Việt-Nam khốc-liệt nhất, trại được mở cửa trở lại làm chỗ huấn-luyện cho các tân binh-sĩ và một cơ-sở Tình-Báo Quốc-Phòng cũng được đặt tại đây. 

 

Lần đầu tiên chúng tôi được đi sinh-hoạt với hội Cựu-Quân-Nhân QL/VNCH, Queensland nhưng cảm thấy thật gần gũi trước những tình thân quý mến của các anh chị hội-viên dành cho gia-đình “Chân Quê”.

  

blank

Gia-đình “Chân Quê” cùng các anh chị trong Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH, Queensland. Úc

Chụp hình lưu-niệm tại trại lính Úc Kokoda ngày kỷ-niệm 55 năm đến Việt-Nam của “AATTV”- 29/7/2017.

 

Đúng 9 giờ sáng, khách tham-dự thứ-tự xếp hàng vào cổng trại; vì sự an-ninh tuyệt-đối nên các hướng-dẫn-viên vô cùng cẩn trọng đọc tên từng người trong danh sách để lên xe bus đưa đến hội-trường dùng điểm-tâm; ai không ghi danh từ trước sẽ không được vào trại.  Sau đó, từng đoàn, từng đoàn xe bus lớn nhỏ chở rất đông khách tham-dự (trong đó có chúng tôi) di-chuyển sang địa điểm hành lễ.  Thật xúc động khi ngay từ dưới chân đồi là một hàng các em Thiếu-Sinh-Quân Úc đứng nghiêm-trang chào “Salute” theo nghi-thức quân-đội.  Có khoảng 500 khách tham-dự, phần lớn là thân-nhân của các anh-hùng tử-sĩ “AATTV”; nhận thấy ông Huỳnh-Bá-Phụng (chủ-tịch Hội Cựu Quân Nhân QL/VNCH Queensland, Australia) và phu-nhân Bích-Vân ngồi ngay hàng ghế danh-dự cùng với các vị Tướng Tá như cựu Trung-Tướng kiêm cựu Thống-Đốc tiểu bang Western Australia; ông Michael Jeffery, các vị đại-diện quân-đội Mỹ, New Zealand, Hội Quả-Phụ “AATTV” v.v… 

 

Quốc-ca Úc cùng những câu kinh và lời nguyện cầu tha-thiết của tất-cả khách tham-dự vang vọng giữa cảnh núi đồi hùng-vĩ bát ngát rừng xanh, nơi đây cũng là chỗ an nghỉ ngàn thu của các cựu chiến binh Úc “AATTV”; ai ai dường như cũng bồi-hồi khi tiếng kèn Tô-Cách-Lan “Bag Pipe” chiêu hồn tử-sĩ vang lên ai-oán; não nùng.  Từng đoàn người nối tiếp lên trao vòng hoa trong ngôi nhà nguyện nhỏ bé mà các cựu chiến binh Úc đặt tên là “The CĂN NHÀ AATTV”.

 

Xem Youtube: https://www.youtube.com/watch?v=8hATjbAcZ20&feature=em-upload_owner

 

blank

Ông Huỳnh-Bá-Phụng lên trao vòng hoa tưởng-niệm trong ngày kỷ-niệm 55 Năm “ATTVN” đến VN.

 

 blank

Ông Huỳnh-Bá-Phụng, cựu Thiếu-Tá John Gibson (chủ-tịch AATTVA, Queensland. Brisbane)

Và anh Thái-Nguyên chụp hình lưu-niệm ngày kỷ niệm 55 năm AATTVA đến Việt-Nam – 29 tháng 7, 2017.

 

blank

Gia-đình “Chân Quê” chụp hình lưu-niệm cùng cựu Đại-Tá Kerry Gallangher (chủ-tịch “AATTV” toàn quốc)

Vì tựa đề bài viết này là “HOẠT-ĐỘNG BÍ-MẬT CỦA “AATTV” nên chúng tôi xin được tóm lược khái-quát như sau:

“AATTV”: là chữ viết tắt của “Australian Army Training Team Vietnam”, tạm dịch là: “Toán Huấn-Luyện Quân-Lực Úc ở Việt-Nam”; người Úc gọi tắt là “The Team”.  Tài-liệu từ trang nhà: “Australian War Memorial” ghi-nhận rằng:

 

Đại-Tá của “AATTV” là ông Ted Serong đã đến Sài Gòn hôm 31 tháng 7, năm 1962.  Ngày 3 tháng 8 (tức 3 hôm sau) toán cố-vấn đầu tiên của “The Team” gồm 15 sĩ-quan và 15 hạ-sĩ-quan cùng tới Saigon.  “AATTV” được gửi vào Việt-Nam từ 12 đến 18 tháng để huấn-luyện và cố-vấn cho quân-đội Việt-Nam-Cộng-Hòa (về du-kích và phản du-kích-chiến khi đánh nhau với Việt-Cộng), cũng có khi chỉ-huy các toán Biệt-Kích người Thượng.  “The Team” là một thành-phần của Biệt-Đội Cố-Vấn Mỹ (US Military Assistance Command Vietnam) – Viết tắt là “MACV”, hoạt-động của “AATTV” tức “Toán Huấn Luyện Quân Lực Úc ở Việt-Nam” hoàn-toàn bí-mật, lúc  bấy giờ cả thế-giới không ai biết đến! Đa số các thành-viên của “The Team” đã được ưu tiên đưa tới các trại Dân Sự Chiến Đấu (CIDG - Civilian Irregular Defense Group – Tức “Biệt Kích Mỹ).

 

 

Các thành viên của “The Team” được phân bố đi khắp nơi, thường hoạt-động riêng lẻ hoặc hai người; chỉ trong trường-hợp đặc-biệt mới kết hợp thành Toán, nhưng cũng không quá 10 người. Lần duy nhất có sự tham-dự đông đảo của các thành-viên là buổi lễ đón nhận huân-chương cao quý “US Army Meritorious Unit Commendation” của Hoa-Kỳ, do Đại-Tướng Abrams, Tư-Lệnh Quân-Đội Hoa-Kỳ tại Việt Nam trao ở thị-xã Vũng Tàu ngày 30 tháng 9 năm 1970.


Tháng 9 năm 1964, tổng số của “The Team” tăng lên 73 người, rồi 112 người vào tháng 6 năm 1965 và cao nhất là 217 người vào tháng 11 năm 1970.  Đầu năm 1971, “The Team” mở khóa huấn-luyện đầu tiên cho các quân-nhân QL/VNCH tại Jungle Warfare Training Centre ở Núi Đất thuộc tỉnh Phước Tuy, Bà-Rịa - Vũng-Tàu.

Năm 1972, khi toàn bộ Lực-Lượng-Đặc-Nhiệm của Úc đã rút về nước, “The Team” tiếp-tục ở lại Việt-Nam, với nhiệm-vụ huấn-luyện chiến-thuật chống du-kích cho phía VNCH và quân-đội Quốc-Gia Khmer (FANK - Forces Armées Nationale Khmer).


“The Team” chỉ chấm dứt hoạt động vào ngày 18 tháng 12 năm 1972, được ghi nhận là đơn vị Úc phục-vụ tại Việt-Nam lâu nhất (trên 10 năm) và cũng là đơn-vị có tỷ-lệ quân-nhân có ân- thưởng huy-chương cao nhất, trong đó bốn người nhận lãnh huân-chương cao quý “Victoria Cross”.

 

Trong cuốn phim tài-liệu “Vietnam the War That Made Australia” của đài SBS (Úc-Châu) xuất-bản năm 2015 ghi-nhận rằng: chiến-tranh Việt-Nam làm cho người dân Úc có một lối nhìn cởi mở hơn đối-với dân-tộc Á-Châu nói chung và  người Việt-Nam nói riêng.  Các thành-viên của “The Team” sau cuộc chiến trở về nước là những người đã tranh-đấu cho rất nhiều thuyền-nhân Việt-Nam được qua Úc định cư một cách dễ dàng (trong đó có bản thân chúng tôi); đồng thời họ cũng vận-động chính-phủ Úc cho các cựu quân nhân QL/VNCH có được đầy đủ trợ cấp về mọi phương-diện tương-đương như các cựu chiến binh Úc bản xứ.

 

Sau 45 năm từ khi quân-đội Úc rời khỏi chiến-trường Việt-Nam, cá-nhân chúng tôi cũng trải qua bao thập-kỷ gian-nan thử thách; không thể ngờ là ngày hôm nay lại có buổi hội-ngộ kỳ-diệu này, nhất là phu-quân tôi rất mãn nguyện khi được tay bắt mặt mừng, trực-tiếp nói lời tạ-ơn từ đáy con tim đến các cựu chiến binh Úc và quý bà quả phụ cùng thân-nhân của các tử-sĩ “The Team”.  Xin cảm-ơn ông Huỳnh-Bá-Phụng (Chủ-Tịch Hội Cựu Quân Nhân QL/VNCH tiểu-bang Queensland) đã tạo điều-kiện cho gia-đình “Chân Quê” đến tham-dự buổi lễ kỷ-niệm 55 năm ngày “The Team” đến Việt-Nam – 29 Tháng 7, năm 2017. 

 

Chúng tôi cảm-nhận được niềm vui trong tiếng nói, môi cười của tất-cả mọi người mà gia-đình “Chân Quê” tiếp-xúc; dường như hơi ấm của tình thương đã lan tỏa khắp khu rừng núi của trại lính Kokoda hôm nay. Chúng tôi cũng tin rằng vong-linh các anh-hùng tử-sĩ “The Team” và VNCH đang mỉm cười nên chín suối khi chứng-kiến được lòng Thành Kính Tri-Ân của chúng tôi và sẽ luôn phù-hộ cho gia-đình “Chân Quê” được “Chân Cứng, Đá Mềm” trên bước đường sinh-hoạt từ-thiện, bác ái. 

 

*Tác-giả “Chân Quê” – Viết xong lúc 2giờ 27’ khuya, rạng sáng Chủ-Nhật 30 Tháng 7, 2017 (Giờ Brisbane, Úc Châu); tức 9giờ 27’ sáng thứ Bảy 29 Tháng 7, 2017 (Giờ California.  USA)



Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.