NGUYỄN TƯỜNG TAM
(1905 - 1963)
Nguyễn Tường Tam bút hiệu Nhất Linh, quê huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, nguyên quán huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ, ông học tiểu học ở Cẩm Giàng, học trung học Trường Bưởi ở Hà Nội. Năm 16 tuổi ông làm thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn. Năm 1924, ông học ngành Y và Mỹ Thuật nhưng chỉ 1 năm thì thôi học. Năm 1926, ông vào Nam, gặp Trần Huy Liệu và Vũ Đình Di định cùng làm báo, nhưng sau đấy tham dự đám tang Phan Chu Trinh nên cả hai người đều bị bắt, ông phải trốn sang Cao Miên (Campuchia), sống bằng nghề vẽ và tìm đường đi du học.
Năm 1927, Nguyễn Tường Tam du học ở Pháp, từ đó ông nghiên cứu về làm báo và xuất bản. Năm 1930, ông đậu bằng Cử nhân Khoa học Giáo khoa (Lý, Hóa) rồi trở về nước. Nhất Linh cùng hai em là Hoàng Đạo và Thạch Lam định sẽ ra tờ báo trào phúng "Tiếng Cười" nhưng thiếu tiền chưa ra được báo thì giấy phép quá hạn. Từ năm 1930 đến 1932, ông dạy học tại trường Thăng Long, nơi đây ông thân thiết với nhà giáo Việt văn Trần Khánh Giư tức Khái Hưng.
Năm 1932, Nhất Linh cùng bằng hữu, mua lại tờ Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai; ông làm Giám đốc, chủ trương dùng tiếng cười trào phúng, đả kích một số tập tục phong kiến lỗi thời, kêu gọi "Âu hóa".
Năm 1932, Nhất Linh; Khái Hưng; Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu); Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ) và 2 người em của Nhất Linh là: Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long); Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân) cùng toan tính thành lập “Tự Lực Văn Đoàn”.
Về sau, có thêm Xuân Diệu và Trần Tiêu (em Khái Hưng) và một số nhà văn khác cộng tác thường xuyên, như: Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, Đoàn Phú Tứ. Dù khởi xướng thành lập “Tự Lực Văn Đoàn” từ năm 1932. Thế mà mãi đến ngày 2-3-1934 mới chính thức tuyên bố ra mắt và hoạt động; báo Phong Hóa trở thành là cơ quan ngôn luận của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Năm 1936, tờ Phong Hóa bị đóng cửa vì Hoàng Đạo viết bài châm biếm Tổng đốc Hoàng Trọng Phu. Tờ Ngày Nay còn tiếp tục lại có cùng lập trường với tờ Phong Hóa. Tháng 12 năm 1936, trên báo Ngày Nay, nhóm Tự Lực Văn Đoàn phát động phong trào “Ánh Sáng” là tổ chức từ thiện với mục đích cải tạo nếp sống tiến bộ ở thôn quê.
Năm 1938, Nguyễn Tường Tam thành lập đảng Hưng Việt, đến năm 1939, đổi tên là đảng Đại Việt Dân Chính, từ đấy Tự Lực Văn Đoàn tích cực hoạt động chống Pháp. Năm 1940, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt và bị đày lên Sơn La, đến năm 1943 được trả tự do. Trong thời gian này, Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay. Năm 1942, Thạch Lam mất, còn Nguyễn Tường Tam qua Quảng Châu, bị giam 4 tháng ở Liễu Châu, được Nguyễn Hải Thần bảo lãnh ra.
Cuối năm 1943, tờ Ngày Nay bị đóng cửa. Đầu năm 1946, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội, xuất bản báo Việt Nam. Tháng 3 năm 1946, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, ông làm Trưởng đoàn Việt Nam dự Hội nghị Đà Lạt đàm phán với Pháp. Ông được cử đứng đầu Phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau nhưng không đi và bỏ trốn sang Trung Hoa. Tháng 5 năm 1946, ông tạm sống ở Hồng Kông cho tới 1951, sau sự kiện cơ sở Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng minh hội bị lực lượng Việt Minh tấn công và giết nhiều đảng viên cũng như bắt nhiều người khác, Việt Minh tố cáo ông đào nhiệm.
Năm 1947, Nguyễn Tường Tam cùng Trần Văn Tuyên, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Hải Thần, Lưu Đức Trung, thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Việt Nam, nhằm ủng hộ Bảo Đại, Mặt trận chống cả Việt Minh lẫn Pháp, nhưng đến năm 1950 thì Mặt trận giải thể.
Năm 1951, Nguyễn Tường Tam về nước mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực Văn Đoàn và tuyên bố không tham gia hoạt động chính trị nữa.
Năm 1953, ông lên sống tại Đà Lạt. Năm 1958, ông rời Đà Lạt về Sài Gòn mở giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay, phát hành được 11 số thì bị đình bản. Năm 1960, ông lại thành lập Mặt trận Quốc dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chính của đại tá Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông. Cuộc đảo chính thất bại, ông có liên hệ nên bị chính quyền Ngô Đình Diệm giam lỏng tại nhà riêng.
Sau đấy, ông bị chính phủ Ngô Đình Diệm gọi ra xử ngày 8-7-1963. Đêm 7-7-1963, tại nhà riêng, ông dùng rượu pha độc dược quyên sinh, để phản đối chính quyền của Ngô Đình Diệm, ông đã để lại câu nói bất hũ: “Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình... để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do.”
Nhất Linh đã để lại nhiều tác phẩm giá trị:
1-Tiểu thuyết: - Đoạn tuyệt (1934-1935)
- Gánh hàng hoa (viết cùng Khái Hưng, 1934)
- Đời mưa gió (viết cùng Khái Hưng, 1934)
- Nắng thu (1934); - Lạnh lùng (1935-1936)
- Đôi bạn (1936-1937); - Bướm trắng (1938-1939)
2- Tiểu luận: Viết và đọc tiểu thuyết (1952-1961)
3- Dịch thuật: Đỉnh gió hú của Emily Bronte (xuất bản 1974)
4- Hội họa: Nhất Linh đã để lại một số tranh vẽ trong đó có bức Scène de Marché de rue Indochinois (Cảnh Phố Chợ Đông Dương) vẽ trên lụa, khoảng năm 1926-1929. Bức tranh này năm 2010, được hãng Sotheby’s bán đấu giá ở Hương Cảng 596.000 đồng Hongkong, tương đương 75.000 Mỹ kim.
Cảm phục: Nhất Linh
Nhất Linh khí khái, chí kiên cường
Vùng vẫy trừ Tây, há nhịn nhường
Khôi phục giang sơn, nên lặn lội
Mến yêu nòi giống, phải lo lường
Truyện thơ, báo chí, luôn mài miệt
Tự Lực Văn Đoàn, mãi vấn vương
Quốc-Cộng tỵ hiềm, đành tuẫn tiết!
Sao băng, chói lọi khắp quê hương.
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn