Hôm nay,  

Những Phép Lạ Trong Tù

8/3/201600:00:00(View: 8308)

Khi nói đến hai chữ “phép lạ”, chúng ta thường nghĩ ngay đến những sự việc lạ lùng xẩy ra hiển nhiên, công khai, có chứng nhân hay vật chứng, mà khoa học không thể giải thích được các liên hệ giữa các sự kiện. Các chuyên viên, cảnh sát, thám tử, và những người viết phóng sự, tường thuật, khi nói về một sự kiện thì luôn luôn theo một mô thức như sau: What? Who? Why? When? Where? How? (Cái gì? Người nào? Tại Sao? Khi Nào? Ở đâu? Như thế nào?) Riêng các nhà khoa học, nghiên cứu thì theo một mệnh đề khác: Positive Causes(n) – Negative Causes(n) = Event. (Nguyên nhân tích cực + nguyên nhân tích cực - Nguyên nhân tiêu cực = Kết quả!) Hoặc A + B + C = D… Thí dụ: Về khoa học thường thức: Hơi nóng > nước bốc hơi > gặp lạnh = mưa! Về khoa học tâm lý: người bình thường + chấn động tâm lý (sinh lý) = người mất bình thường. Về y khoa: ăn nhiều chất đường + bột gạo – (thiếu) thể dục = bệnh…

Đối với “phép lạ” thì các mô thức kia bị triệt tiêu, vì không có cơ sở để lý giải được. Và vì không thể chứng minh bằng khoa học thường thức, nên những kẻ xấu thường dè bỉu các “phép lạ” như là những trò lường gạt của những kẻ mê tín. Nhưng với tôi, khi còn trong tù Cộng Sản đã nhiều lần được thoát hiểm trong tích tắc, mà không chuyên gia khoa học nào giải thích được, nên tôi vẫn tin có “phép lạ”.

Trường hợp thứ nhất: Ngày đầu tiên trình diện tại trường Chu Văn An để đi “học tập”, tôi đem theo một cuốn vở học trò, dầy 200 trang, với mục đích để ghi nhật ký những ngày trong tù, hầu sau này có dịp cho thế hệ sau hiểu về nhà tù Cộng Sản (ý định bắt chước Aleksandr Solzhenitsyn viết Quần Đảo Ngục Tù). Tên bộ đội kiểm soát hành lý của tù nhân tại bàn giấy đặt tại cổng Trường, sau khi tịch thu mất cái đèn pin, quẹt Zippo, và dao cạo râu của tôi, định lấy luôn cuốn vở, tôi vội nói: “Tôi là người muốn tìm hiểu về cách mạng Xô Viết, nên mang theo cuốn này để ghi chép các bài học về Mác xít -Lê Nin nít, Mao ít…”. Nghe thấy tôi nói môt tràng “ít ít”…, tên bộ đội ngẩn người ra, và trả lại tôi cuốn vở. Mừng quá, tôi dấu ngay cuốn vở vào bụng. Sau đó, nhóm chúng tôi được chuyển lên Trảng Lớn, được chỉ định ở ngay trên mặt đường nhựa, không có nhà cửa chi cả. Chúng tôi phải đi nhặt ống giấy đựng đạn đại bác dựng đứng lên, rồi xé bao cát ra làm giây cột, tự dựng thành nhà ở. Trong những buổi tối, sau khi lao động về, tôi nằm dài ra đất, giương mắt ra mà viết nhật ký. Trang đầu tiên, tôi vẽ ngay bức hình cái nhà ở nham nhở làm bằng ống vỏ đạn, và từ đó, những ngày tháng đầu tiên được trải ra giấy. Việc tôi viết nhật ký cũng như vài anh em làm thơ nhớ nhà, có lẽ bị “ăng tên” nào đó báo cáo, nên một buổi chiều, đang loay hoay với cuốn nhật ký, thì bất ngờ, một đoàn vệ binh ào vào như cơn lốc, chĩa lưỡi lê vào bụng chúng tôi và gào thét bắt mang đồ đạc ra sân, đứng thành hàng, cho tên quản giáo xét đồ! Tụi chúng đến nhanh quá, tôi không kịp dấu cuốn nhật ký đi, đành ôm tất cả gia tài ra ngoài sân, mà mồ hôi bắt đầu nhỏ giọt trên trán. Tôi đứng vào hàng gần sau cùng, với cuốn vở đó như

một kết liễu cuộc đời tôi nằm chình ình trên cái ba lô tôi làm bằng bao cát có hai lớp đáy để hàng ngày giấu cuốn vở. Tên quản giáo, từng nằm vùng ở miền Nam, đi từ hàng đầu đến cuối, tới mỗi chỗ đứng của một tên tù, hắn ngồi xổm xuống lục hàng. Gặp bất cứ môt miếng giấy nhỏ có viết chữ nào là lập tức người chủ miếng giấy đó bị lôi ra ngoài, xếp hàng riêng, chờ tống vào một cái ngục nào không ai biết. Tôi nhớ có anh bạn họ Bùi.. viết có 4 câu thơ tả núi Bà Đen, và nhớ vợ, bị lôi xềnh xệch đi ngay.. Một anh khác cũng viết dở một lá thư cho vợ cũng bị lôi đi.. Khi tên quản giáo đến gần chỗ tôi, thì mồ hôi tôi tuôn ra ướt hết trán, trôi xuống cằm! Tôi biết số phận tôi đã kết liễu vì cuốn nhật ký của tôi ghi toàn bộ những lời nói láo của tên quản giáo, và các việc làm lao động khổ sai của chúng tôi gần hai chục trang…Không còn cách nào khác để cứu mình, tôi chỉ biết đọc kinh và cầu Chúa! Khi tên quản giáo tới chỗ tôi, hắn ngồi xụp xuống, thấy cuốn nhật ký, hắn mở ra, và đọc.. Tôi nhắm mắt lại, thầm thì lời nguyện: “Lạy Chúa, xin cứu con. Nếu Chúa muốn con còn sống, thì con sẽ sống, nhưng nếu Chúa muốn con chết, thì con cũng xin vâng theo ý Chúa”.

Tôi đọc kinh xong thì nhìn thẳng lên trời, nghe mồ hôi nhỏ giọt trong lưng áo và nghe thấy tên quản giáo từ từ mở từng trang giấy xột xoạt… Lạ lùng thay! Tên này đọc hết mấy chục trang, rồi.. gấp cuốn vở lại, đứng dậy, và bước sang bên cạnh, hoạnh họe anh bạn có tới mấy cây bút Bic! Tôi đứng cứng cả người, không cử động được! Khám đến người cuối cùng, thi tên quản giáo cho giải tán. Nhìn ra phía trước, thấy mấy anh làm thơ cho vợ bị lôi đi xềnh xệch, tôi ngơ ngác như người mộng du.. Phép lạ của Chúa đã cứu tôi trong khi tôi mới là kẻ đáng bị xử lý nhất, vì cuốn nhật ký của tôi lù lù ra đó, dầy cui, có hàng ngàn chữ ghi tội ác của chúng! (Cuốn nhật ký này, tôi vẫn còn giữ đến bây giờ! Khi sang Mỹ theo diện H.O, tôi cũng dấu theo được mà chẳng có tên Công An nào thấy!)

Sau khi về lại chỗ ngủ, mấy anh nằm gần vẫn thấy tôi viết nhật ký lại nắm vai tôi, lắc mạnh, ngơ ngác…Không anh nào hiểu được tại sao tôi viết nhiều nhất lại an toàn trong khi mấy anh kia chỉ viết có vài câu nhớ vợ mà bị lôi đi biệt tích???

Phép lạ thứ hai:

Ở trại tù Cà Tum, láng chúng tôi có lệ là ai sắp có thân nhân lên thăm thì nhờ mang theo thư từ và chút quà. Khi anh A được vợ lên thăm, anh A sẽ nhờ bà vợ mang địa chỉ của mấy anh B, C, D, E… nằm gần anh A, chuẩn bị thư từ và quà để gửi cho vợ anh B sắp lên thăm vào cuối tháng. Rồi anh B lên, mang theo thư và quà của anh A, C,D, E… Hôm đó, tới lượt tôi được thăm nuôi. Vợ tôi nhìn trước, sau thấy tên bộ đội quay đi, thì dúi cho tôi một cọc thư buộc dây thung. Tôi nhét ngay vào bụng. Vợ tôi chỉ cho tôi biết mấy gói quà nhỏ của các anh nằm gần.. để trao cho họ. Sau 15 phút phù du, tôi chia tay với người vợ thân yêu, rồi lủi thủi, đeo ba lô đồ thăm nuôi, ra về. Đường về trại phải đi qua một cánh rừng “le”, môt loại tre nhỏ, mảnh mà cao, mọc thành chùm như cái nấm. Một nhóm thân “le” tụ lại sát nhau, rồi tỏa cành tre mỏng ra bốn hướng, rơi xuống đất theo hình vòng cung làm thành cái mũ nấm tròn với các nhọn le chạm đất kín mít. Bên trong thì rỗng không, có thể cho nhiều người đứng. Mỗi khi chúng tôi muốn lấy măng, thì bò toài dưới đất, vạch mấy ngọn le ra, trườn vào gốc, cắt măng rồi bò lùi ra. Ít người dám ngồi trong đó, vì “vắt” sẽ phóng tới, bám vào tai, tay, cổ.. để hút máu. Hôm đó, trên đường về, nhìn quanh quất không thấy ai, tôi vạch một bụi le ra, chui vào trong “bụng” cây nấm, đặt ba lô xuống đất, ngồi lên và bóc thư vợ ra xem! Nhưng lá thư đầu tiên trong cọc thư lại là thư của một anh bạn nằm cùng láng, gấp đôi lại, không có phong bì. Vô tình, tôi liếc qua vài dòng, và rồi giật bắn người lên, bàng hoàng! Lá thư viết vội cho chồng mở đầu bằng hàng chữ: “Anh L.! Nếu anh không về sớm, thì chắc em tự tử mất! Đ.M. bọn Cộng Sản! Đ.M. thằng Hồ Chí Minh! Nó cướp mất nhà của mình rồi, em đang ở nhờ nhà mẹ, nếu không về nhà mẹ thì em phải đi kinh tế mới! bọn cộng sản chó đẻ khốn nạn quá, chúng không từ nan việc khốn gì mà không làm… Đ.M. Cộng Sản!” (Những chữ tục này viết đủ, không viết tắt!)


Mới đọc đến đây, tôi hoa cả mắt! Chết rồi! Lá thư này mà lọt vào tay bộ đội, thì tôi bị bắn tức thì! Bà này muốn giết tôi chết sao? Vừa nghĩ đến đây, một mũi súng chĩa vào mạng sườn tôi và một tiếng quát lớn: “Làm gì ngồi đây? Đọc thư phản động hả?” Tôi hết hồn nhìn sang thấy một tên bộ đội trẻ đang quắc mắt nhìn tôi, mũi súng AKA của nó đẩy đẩy vào bụng tôi. Nó lại quát: “đưa bó thư đây!”

Thế là hết! Thế là chết! Tôi lẳng lặng đưa chùm thư cho tên bộ đội hung hăng, và biết rằng mình sắp lãnh một viên đạn đồng, tôi nhắm mắt lại và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cứu con! Con không có hy vọng gì sống sót! Chỉ có Chúa mới cứu được con mà thôi!” Rồi tôi nhìn tên bộ đội đang đọc lá thư khủng khiếp kia, chờ hắn giải tôi về phòng an ninh gồm những tên trọ trẹ Nghệ An, quê hương “Bác Hồ” rồi bị trói vào cọc.. Nhưng không ngờ… tên kia đọc hết lá thư đó, rồi đọc thêm vài thư nữa, rồi đột nhiên trở giọng hiền từ: “Thôi! Đi về đi! Anh em đang đợi!” Vừa nói, hắn vừa gài lại dây thung như cũ, đưa sấp thư cho tôi, rồi cúi người xuống, chui ra khỏi cái lỗ mà nó vạch ra lúc nãy…Tôi sững sờ một lúc rồi mới lững thững về trại, kể cho anh em nghe về lá thư khát máu kia. Mọi người đọc xong, chửi anh L. thậm tệ: “Con vợ mày là đứa khốn nạn! Nó nhờ người ta đưa giùm thư lại viết như thế, có khác gì đưa người ta ra cọc bắn không?..” Anh L., người nhận thư, không biết nói sao, chỉ ngồi khóc! Tôi lại phải an ủi anh ta…

Phép lạ thứ ba:

Một hôm đi rừng ở Cà Tum, tôi bị vấp chân vào một cái dây kẽm gai bỏ lăn lóc trong đống cỏ, bị sước bắp chân chừng 1 cm, tôi coi thường, rồi quên đi. Ngày hôm sau, chỗ sước đóng vẩy lại, tưởng là sẽ khỏi. Ai ngờ, đến ngày thứ ba, đang lao động bỗng thấy sây sẩm, chóng mặt, và người nóng bừng, tôi té ngồi xuống đất. Anh em chạy lại đỡ tôi lên và bảo tôi đi về vì thấy người tôi quá nóng. Tôi lết về đến lán, leo lên được cái chõng tre thì hết hơi. Nghe tin tôi bệnh nặng, anh bạn tôi, đại úy quân y, lúc đó đang làm nhiệm vụ “Vệ sinh Viên” (y tá) của trại chạy đến. Anh khám tôi và chỉ cho tôi thấy cái chân của tôi, từ ngón chân trở lên đến trên đầu gối đã tím đen! Anh thở dài, nói: “Tao nói mày đừng buồn! Mày bị hoại huyết rồi! Bệnh này cần đến trụ sinh cực mạnh mới trị được! Mà ở đây làm gì có trụ sinh? Chỉ có nước.. cưa! Cưa càng sớm càng tốt, kẻo nó chạy lên đến háng thì ra nghĩa địa!” Tôi nghe bạn nói mà thẫn thờ…Một lúc sau, tôi nói: “Mày lên trạm y tế hỏi đại xem sao!” Bạn tôi nói: “Đi cũng thế thôi, nhưng để cho mày yên lòng, tao đi.” Khoảng 15 phút sau, anh trở lại, lắc đầu: “Tao đã nói mà! Chúng nó nói chỉ còn cách cưa!” Nhưng nhìn thấy tôi buồn bã quá, anh nói: “Tao chạy đi một vòng, xin bạn bè, xem có đứa nào có trụ sinh không?” Rồi anh đi ngay. Tôi nằm trên võng mà thở dài, vì nhớ đến một anh bạn đạp mìn khi đi phá bãi mìn theo lệnh bộ đội, phải cưa chân. Anh bị cột chặt vào chõng tre như cột heo, mồm thì bị nhét giẻ, không có thuốc mê. Một bác sĩ dùng cái cưa thợ mộc mà kéo qua kéo lại “rít.. rít…”. Nghĩ đến đây, tôi thấy hàm răng tôi tê buốt. Lại cũng nhớ đến niềm hy vọng cuối cùng của một con người, tôi nhắm mắt và cầu nguyện. Tôi dâng mọi sự lên cho Chúa, xin Chúa cứ làm theo Ý Ngài. Một lúc sau, bạn tôi hổn hển trở về, đưa cho tôi một nắm thuốc viên trắng, nói: “Tao xin mỗi nơi một, hai viên trụ sinh, không cần biết là loại nào, mày bỏ hết vào mồm, làm một lần. Số mày còn sống thì qua khỏi, số mày phải chết tại đây, thì đành chịu.”

Tôi cám ơn bạn và tống hết nắm thuốc vào mồm, uống một hơi nước và nhắm mắt lại, ngủ mê man 9,10 tiếng đồng hồ. Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy, đột nhiên thấy thoải mái, không còn sốt nữa, tay chân hình như nhẹ nhàng hơn. Tôi ngồi phắt dậy, nhìn vào chân mình thì thấy.. da đã trắng trở lại, không còn dấu vết đen tím nữa!

Phép lạ thứ tư:

Về nhà được chừng 1 tháng, tôi tính đường vượt biên. Tôi dự định lên nhà người cậu họ ở Cát Lở, Vũng Tầu, nhờ cậu cho đi ké. Lên đường, tôi giả dạng công nhân bằng cách mặc cái áo sơ mi nâu, bỏ ngoài quần, đi dép lốp, tay cầm cuốn “MÁC XÍT- LÊ NIN NÍT”. Xe đò khởi hành đi Vũng Tầu ồn ào vì hàng trên chỗ tôi ngồi là một nhóm công an mặc thường phục, nói cười vung vãi. Tôi ngồi hàng ghế sau cùng, dựa vào cửa kính sau. Xe đò đi thoải mái được chừng 1 tiếng, bỗng bất ngờ dừng lại tại một trạm công an đặt ngay bên đường. Một tên công an leo lên xe, quát: “Xuống! Xuống hết!” Bà con lục tục kéo nhau xuống. Tên công an trạm đi từ đầu xe xuống cuối xe, thấy mấy tên mặc áo sơ mi này còn ngồi đó thì quát: “Sao mấy tên này không xuống?” Một tên trong bọn cười gằn: “Bọn tao là công an đây!” Tên khám xe trợn mắt: “Công An cũng phải xuống!” Mấy tên kia vùng vằng một lúc rồi cũng phải xuống vì mũi súng của tên kia chĩa thẳng vào người. Tôi ngồi cứng đơ! Vừa mới đi tù về, chỉ có giấy ra trại, mà mới ra trại lại đi Vũng Tầu, nhất định là Vượt Biên! Thế thì thêm vài năm nằm ấp nữa! Tôi lại nhắm mắt, cầu nguyện! Sau khi mấy tên công an kia xuống hết, thì tên khám xe tiến đến tôi, trợn mắt! Tự nhiên tôi thấy một cái lực đẩy tay tôi đang cầm cuốn sách đưa cho tên kia nhìn cái bìa, mà không nói một tiếng nào! Thật lạ lùng! Tên khám xe vừa nhìn thấy cái bìa sách như nhìn thấy một cái gì đó, mà bỗng cúi đầu, chào tôi một cách cung kính, rồi quay lưng đi ra! Tôi bàng hoàng môt lúc rồi mới tạ ơn Chúa! Sau đó chừng nửa tiếng, bà con lục tục đi lên, nhưng thiếu mất 3 người bị bắt vì mưu toan vượt biên! Còn mấy tên công an chìm kia vừa lên xe vừa chửi tục um xùm...Số mạng tôi, một lần nữa đã được Chúa cứu ngoạn mục. (Chuyến vượt biên này và hai chuyến sau đều không thành công, sau những ngày nằm “ém” khốn khổ tại các nhà cầu, bãi sình, ruộng lúa, trên ghe “tắc xi”…có lẽ ý Chúa muốn tôi đi cả nhà theo diện H.O.!)

Những câu chuyện trên đây chỉ là một số trong hàng trăm điều lạ mà tôi nhận được từ Chúa Giê Su từ mấy chục năm rồi. Ngày hôm nay, tường thuật lại, không có mục đích nói về mình, mà về Tình Thương vô cùng to lớn của Chúa, một tình thương mà không có bút mực nào, tranh vẽ nào, bản nhạc nào có thể diễn tả đầy đủ được. Từ khi Chúa Giê Su xuống trần đến nay đã mấy ngàn năm, Ngài vẫn ở lại với Con Người và giúp đỡ hàng tỷ con người vượt qua nhiều thử thách, hoạn nạn. Với Việt Nam, biết bao người vượt biên nhờ lời cầu nguyện! Biết bao người đã thoát chết kỳ lạ trong các trại lao tù khổ sai! Biết bao gia đình thành công bên Mỹ một cách lạ lùng! Vì thế, với lòng chân thành, xin dâng câu chuyện này để cùng với hàng tỷ người Tạ Ơn Chúa đời đời, kiếp kiếp chẳng cùng.

Chu Tất Tiến

Reader's Comment
8/4/201617:30:55
Guest
Đồng ý với tác giả. Quả là những phép lạ.
8/4/201606:10:12
Guest
Tôi tin tuyệt đối vào Đấng Tối Cao. Tôi không theo Công Giáo, và cũng không phải là mồt Phật tử thuần thành, nhưng tôi đã nhiều lần chứng nghiệm sự linh ứng của Phật Bà Quan Âm cứu sống cuộc đời của tôi.
8/3/201618:11:25
Guest
'Phước cho kẻ chảng thấy mà tin'
'Vả đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đang trông mong.là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy [thánh kinh sach hebreux 11 :1]
Cám ơn Chúa về bài vết của tác giả , như một lần nữa tái xác tín lòng tin vào TINH YÊU tuyệt đối của Chúa cứu thế Jesus.Tôi rất cảm động về lòng thành của tác giả , trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng dâng trình lên Chúa và phó thác hoàn toàn trong 'Ý Chúa được nên 'Xin Chúa tiếp tục trong dụng ngòi bút của tác giả như một chứng nhân trung thành của Chúa Amen
Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.