Hôm nay,  

Trịnh Cung Và Hành Trình Của Những Cuộc Hóa Thân Tháng Tư

22/05/201500:00:00(Xem: 5045)

Tháng tư năm nay lại về, về như một dấu hằn, dấu mốc, dấu thất lạc, dấu nhớ, dấu vỡ, dấu khắc khoải, dấu động kinh của 40 năm xưa mà như mới hôm qua. Tháng tư cũng là khởi điểm của những hành trình hoá thân của bao nhiêu triệu người Việt đã và đang sống ở trong nước cũng như ngoài nước Việt Nam.

Giống mọi người, Trịnh Cung đã trải nghiệm một cuộc hoá thân khởi đi từ tháng 4, năm 1975. Bầu trời ông thở vào thời điểm đó, của miền Nam sau khi thua cuộc, phát ra những tia sáng mong manh và yếu ớt một buổi chiều chạng vạng. Nó đã ảnh hưởng trực tiếp vào tâm hồn người cầm cọ, lại vướng tính mẫn cảm của một kẻ yêu và thích làm thơ như ông. Ông như người rơi vào vòm đêm rã rượi của tháng tư đen, như chìm trôi trong cuộc hôn mê suốt 10 năm dài, cuối cùng tỉnh lại và kịp thoát ra khỏi bóng đêm tuyệt vọng. Ông đã tìm thấy nghệ thuật là cái phao cứu độ đúng như ông đã tự bạch trong vựng tập của cuộc triển lãm cùng các hoạ sĩ đồng thời như Nguyễn Trung, Đinh Cường, Nguyễn Phước, Nguyên Khai… tại Houston, Hoa Kỳ năm 2012. “Hội hoạ luôn cứu chuộc tôi khỏi những vấp ngã, những khủng hoảng tưởng chừng không gượng dậy được..”

Sau 10 năm buông cọ ông đã nhận ra sao không biến những đau thương của đời mình thành những tác phẩm nghệ thuật và từ sự suy nghĩ đó tác phẩm “Những cuộc hoá thân tháng tư” ra đời năm 1990 như một đứa con mang dấu ấn kinh hoàng không bao giờ có thể quên, như hệ quả sau một cuộc hiếp dâm tập thể.

blank
Những Cuộc Hóa Thân Tháng 4 (1990), Sơn dầu trên canvas, Kích thước: 80cm x 100cm.

Bây giờ chúng ta hãy cùng theo dõi cuộc chuyển hoá của ông và hoàn cảnh đất nước vào năm 1990 trong tác phẩm “Những cuộc hoá thân tháng tư”.

Nhìn vào bố cục cân bằng của tranh, chúng ta thấy một lằn ranh màu xanh phân đôi bức tranh làm hai mặt phẳng, hai miền thời gian hay hai thế giới sắc màu rõ rệt. Lằn ranh ấy đồng thời miêu tả dáng cong một người phụ nữ bằng một đường ngực và hông, mở ra một chân trời mát dịu trong màu xanh pha xám lấm chấm xanh ngọc và bạc. Cách pha màu dịu nhẹ này của Trịnh Cung khiến mới nhìn, tôi có cảm tưởng như ông vẽ bằng màu nước chứ không phải sơn dầu trên bố. Lạ lắm cái màu, nửa xanh, nửa xám, nửa lam lại có vẻ trắng bàng bạc mà ông đặt tên là xanh phổ (Prusse Blue) này, theo tôi, nó diễn tả được những nội tâm phức tạp cũng như những cảm tính bất định nơi người phụ nữ.

Phía lằn ranh bên phải gần dưới cùng bức tranh, chúng ta thấy một con chim nhỏ màu bạc đuôi xanh. Phía trên con chim là một vòng tròn to đỏ, tượng trưng cho mặt trời và trên nữa là một mảnh trăng lưỡi liềm cũng đỏ. Màu xám bạc chung quanh vầng trăng và trong mặt trời nâng đỡ cho màu đỏ, khiến người ta nghĩ tới một tế bào máu hay giọt máu hồng. Màu đỏ cũng dịu nhẹ hơn nhờ sự hỗ trợ của xám và bạc lan toả. Trên nữa là hình một cái đầu ngựa màu nâu đất. Phía trên cùng góc trái là một đầu trâu. Còn dưới thấp trông như hình một con dao gẫy. Chung quanh những hình thể người, thú và vật là những mảng màu trắng bạc (Titanium White), nâu, xám được pha trộn làm nhạt đi, loãng ra để nổi bật lên màu chính là xanh phổ, đỏ và nâu đất.


Nhan đề “Những cuộc hoá thân tháng 4” là một dẫn dắt cần thiết cho người xem bước vào nội dung và ý nghĩa ẩn dụ của bức tranh. Chúng ta hãy đi ngược về quá khứ tháng tư năm 1990 để nhìn vào hoàn cảnh đất nước Việt Nam thời ấy sẽ thấy ánh sáng của bức tranh được soi rọi và hiện ra dần. Trung tâm bức tranh là người phụ nữ mà cũng là cái trục của cuộc đời xoay quanh. Dáng hình người phụ nữ ấy như ở giữa lằn ranh của hư và thực và rồi bị đẩy trượt vào quá khứ màu xanh xám. Miền quá khứ ấy là những kỷ niệm đẹp đẽ để con người hoài niệm và tiếc nuối mà con người lỡ để nó tuột khỏi tầm tay. Bên phải, trái là những mặt nạ trá hình của lũ đầu trâu mặt ngựa hiện diện như số phận hay hình hài hoá thân của kẻ dữ trong một thời đại hỗn mang. Con chim mang ẩn dụ cho số phận nhỏ nhoi của người dân bị thu mình lại. Mặt trời và mặt trăng bị nhuộm đỏ tức cả nước chìm trong màu cờ đỏ của cộng sản. Con dao như vũ khí và sức mạnh của miền nam đã bị bẻ gẫy. Đó là phía của người thua cuộc.

Thoạt nhìn tranh Trịnh Cung tôi nhận ra được những uẩn ức nội tâm đang được ông dùng những màu sắc nhẹ và mềm mại thể hiện. Ông sử dụng các hình tượng, chim, người phụ nữ, mặt nạ đầu trâu mặt ngựa để bộc lộ những suy tư từ lâu bị dồn nén. Ông đã dùng nghệ thuật Biểu Hiện. Tuy nhiên, vì sinh ra và lớn lên trong thời thịnh đạt của trường phái lãng mạn, cây cọ của ông thường ảnh hưởng đường nét của nghệ thuật lãng mạn. Thêm nữa, trong con người ông lại có tố chất của một người làm thơ vì vậy màu sắc và phong cách vẽ của ông không ít thì nhiều ảnh hưởng tính lãng mạn trữ tình của thi ca thời ấy. Ông không sử dụng màu dày, hay nổi bật dữ dội. Trái lại, cách ông pha màu hay chuyển đổi từ màu này qua màu kia, trông rất mềm mại, nhẹ nhàng và tinh tế. Đã vậy, hình như ông lại muốn vượt thoát ra khỏi ngôn ngữ ẩn dụ của hình thể, để vươn lên một cái gì mới hơn, vô hình thể hơn, trừu tượng hơn. Do đó, những mặt nạ, dáng người phụ nữ, con dao, đã trở nên mờ nhạt, không rõ rệt, mơ hồ và xa rời Biểu Hiện để bước vào thế giới của nghệ thuật Trừu Tượng. Phải nói là trạng thái nội tâm của ông khi vẽ bức tranh này rất là rất phức tạp, nên ông đã dùng hình thái nghệ thuật Biểu hiện – Trừu tượng (Abstract expressionism), để vẽ bức này.

Nói tóm lại, thông điệp của bức tranh đã nói lên được tâm trạng của Trịnh Cung vào một tháng tư và những tháng tư sau này. Tâm trạng một người nghệ sĩ tạo hình bất lực trước sự thay đổi hỗn mang của thời cuộc và đất nước. Ông, một con chim nhỏ, một kẻ lưu vong trên chính quê hương mình, không biết làm gì hơn là thu mình lại, và cất tiếng hót vào hư không.

Trịnh Thanh Thủy

Ý kiến bạn đọc
23/05/201516:32:23
Khách
Cách nhìn và cách phán đoán về bức tranh của Trịnh Cung tuy chủ quan, nhưng cũng nói lên trình độ nghiên cứu về hội họa của tác giả đã vượt lên tầng cao.
Cám ơn tác giả đã dẫn dắt người đọc xuyên suốt trong hành trình thưởng ngoạn bức tranh "Những cuộc hóa thân tháng 4". Xin gởi lời thăm tác giả và họa sĩ Trịnh Cung.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.