Hôm nay,  

Hòa Lan, Vương Quốc Của Xe Đạp

28/03/201500:00:00(Xem: 13333)

Cỏ May đã tới Hòa lan ngay từ những năm đầu 80 của thế kỷ trước  khi người Việt nam tới tỵ nạn ở đây đông đảo.

Nay, Cỏ May trở lại Hòa lan, ở tại trung tâm Amsterdam khá lâu, nên có thì giờ làm quen với Hòa lan nhiều hơn. Truớc khi quen biết những thứ khác, Cỏ May nghĩ nhiều người tới Hòa-lan chắc ai cũng sẽ kinh ngạc trước khối lượng xe đạp kiểu xưa xẻ dọc, xẻ ngang xứ Hòa-lan và nguưòi đi bộ phải cẩn thận tránh tai nạn lưu thông xe đạp, chớ không phải xe hơi như ở Pháp.

blank
Hình ảnh Hòa Lan.

Khi nghe Hà-lan thay vì Hòa-lan thì biết ngay người nói đó phải từ Miền Bắc cộng sản chớ không phải người trong Miền nam. Thật ra Hà-lan đã phổ biến trước đây. Trong các sách  đều vìết Hà-lan. Ở Miền nam từ sau 54, báo chí, sách vở bổng thay đổi, viết lại là Hòa-lan. Và từ đó, mọi người quen gọi là Hòa-lan và đinh ninh cách gọi tên nước Hòa-lan là chính xác.

Mà Hòa-lan hay Hà-lan cũng đều chuyển âm từ tiếng hán việt chữ Hollande nhưng người tàu đọc Hollande theo phiên âm tàu là Hà-lan (Hé-lén). Việt nam thường mượn phiên âm của tàu đọc lại bằng hán việt mà không nghĩ nó sai lạc với chữ gốc mấy độ xa. Như “France” thành “Pháp-lang-sa”, rồi chỉ còn “Pháp” ngắn gọn mà người việt nam nào cũng hiểu.

Gọi xứ Hòa-lan/Hà-lan phiên âm từ Hollande lại cũng không đúng vì La Hollande theo người pháp gọi không đúng nhưng rất quen thuộc. Vì Hollande chỉ là 2 tỉnh, chia làm Hollande Bắc và Hollande Nam vào giữa thế kỷ XIX, trong 12 tỉnh họp thành nước “Hòa-lan /Hà-lan” ngày nay. Trong lịch sử, chỉ gọi Hòa-lan/Hà-lan – Hollande là đúng và thống nhứt. Đó là vào đầu thế kỷ XIX khi Napoléon làm vua Hollande.Gọi cho đúng tên, phải là “ Xứ-Thắp ” - “ Pays-Bas” hay  “ Nederland ” có nghĩa là đất thắp theo tiếng hòa lan. Và đầy đủ thì phải nói “Vương quốc Xứ-Thắp (Le Royaume des Pays-Bas). Vì Hòa-lan/Hà-lan,  theo Hiến pháp, chỉ là một phần của Xứ-Thắp (Pays-Bas) mà thôi.

Gọi Hòa-lan là Xứ-Thắp vì thế đất của Hòa-lan không chỉ thắp dưới mặt biển mà còn phẳng lì, không có lấy một chổ cao khả dĩ phụ nữ hòa-lan không thể bước qua khỏi nên dân hòa-lan phải tìm cách đặt tên thành phố thành đồi núi. Từ đó, Hòa-lan trở thành nước cũng có nhiều núi như:

- Driebergen hay Ba núi (Drie: 3, berg: núi, bergen) là thị xã nhỏ bên cạnh tĩnh Utrecht (nằm giửa Hòa Lan),

- Bergen op Zoom hay dảy núi ở bìa rừng (Bergen: dảy núi, op: ở trên, zoom: bìa, mé rừng)  là thị xã nằm sát biên giới Bỉ,

- Zevenbergen hay Bảy núi (Zeven:7, bergen: nhiều núi) là một xóm nhỏ thưôc thị xã Etten-Leur gần Breda.

Hòa-lan/Hà-lan, Vương quóc xe đạp

Ai tới Hòa-lan đều khó tránh bị ngạc nhiên trước cảnh xe đạp nhiều hơn xe hơi. Hòa-lan có 16, 4 triệu dân, 18 triệu chiếc xe đạp. Hòa-lan có cái thuận lợi để xử dụng xe đạp là đất đai bằng phẳng nhưng cái bất lợi lớn là nhiều gió và gió lại mạnh. Đạp xe ngược gió vất vả hơn leo núi.  

Thế mà Hòa-lan vẫn là xứ xe đạp, ngoài những lý do như tránh ô nhiễm, có nhiều lối đi dành riêng cho xe đạp rất thuận lợi và khang trang mà những nước khác không có được, tránh nạn kẹt xe, còn lý do gắn liền với lịch sử nữa. Hòa-lan muốn cổ võ sức mạnh dân tộc trước cường quốc Đức được Bismarck thống nhứt vào cuối thế kỷ XIX. Theo Ông Frédéric Héran dạy Kinh tế tại Đại học Lille  ở Pháp, “ người dân Hòa-lan nhận thấy đi xe đạp vừa là phương tiện khám phá đất nước, vừa là sự trở về thời Hoàng kim của xứ sở thế kỷ XVII, một biểu tượng của sức mạnh, sự quân bình, tự lực, tự do và độc lập ”. Hoàng gia và phần lớn giới thượng lưu chọn xe đạp là “cách di chuyển thân dân ”. Bà Hoàng Wilhelmine qua Paris được dân chúng Pháp nhiệt liệt hoan nghênh và ca ngợi chiếc xe đạp của Hòa-lan là “Nữ hoàng nhỏ”.  Con gái nữ hoàng, Công nương Juliana, năm 1936, đi xe đạp một vòng cử hành lễ cưới của bà, tới cháu gái Béatrix, Nữ hoàng ngự trị Hòa-lan từ 1980 tới 2013, tiếp tục truyền thống đi xe đạp của Hoàng gia. Do đó, đi xe đạp ở Hòa-lan thể hiện một hình ảnh đẹp và tích cực.

Ngoài ra chánh sách đô thị rất cân đối giữa phần dành cho hệ thống  xe lớn và phần dành cho xe đạp để  hội nhập với khu dân cư.

Từ xa xưa, dân  chúng phần đông xử dụng phần đất công trước nhà như lề đường và ngay cả mặt đường để trẻ con chơi giởn. Do đó mà nhà cửa ở Hòa lan có nhiều cửa kiếng và cửa kiếng rất lớn lại không treo màng để từ trong nhà có thể trông chừng trẻ con ỏ trước nhà.
Tại sao xe đạp phát triển ở Hòa-lan và Bắc âu?

Ở Hòa-lan và Bắc âu, xe đạp là cách di chuyển được nâng lên hàng ưu tiên trong lúc đó các nước phía Nam như Pháp, Ý, di chuyển bằng xe đạp hảy còn quá hạn chế. Xe đạp chỉ được dùng tập thể thao.

Một bài điều tra trên nhựt báo Le Monde cho biết thành phố Amsterdam có 800 000 dân mà mỗi ngày có 500 000 người di chuyển bằng xe đạp chạy hết 2 triệu km đường của thành phố.

Khi đặt vấn đề dùng xe đạp để tránh nạn ô nhiễm, kẹt xe, tốn kém,...người pháp sẽ trả lời ngay “Ý kiến rất hay nhưng nên nhớ cho ở đây chớ không phải ở Hòa-lan”.

Người pháp thường chỉ thấy Hòa-lan là bông tulipes và coffee-shops. Xe đạp ở Hòa-lan đối với họ là thứ “ địa ngục trần gian ”.

Đúng vậy. Hòa-lan đầu tư rất lớn vào chương trình phát triển xe đạp nhưng vẫn không theo kịp đà người dân xử dụng  xe đạp. Ở nhà ga Amsterdam có 2 bãi xe đạp cho 15 000 chiếc, một nằm cạnh bờ kênh và bãi kia thụt vào bên trong. Vậy mà còn nhiều xe phải dựng ở chổ trống vì không đủ chổ cho tất cả xe đạp của hành khách của nhà ga.

blank
Hình ảnh Hòa Lan.

Ở những thành phố lớn của Pháp, xe đạp và đường dành riêng cho xe đạp chỉ chiếm từ 1 đến 5% không phải vì ở Pháp trời lạnh, nhiều gió, tuyết, mưa, thế đất gồ ghề nên khó dùng xe đạp. Ở Hòa-lan mới mưa nhiều và thường xuyên, gió lại mạnh thổi rát mặt.

Vậy phải chăng sự khác nhau giữa Pháp và Hòa-lan thuộc phạm trù văn hóa? Văn hóa la-tinh và văn hóa phương bắc hay tin lành.

Sự khác nhau này có thể làm cho nhiều người suy nghĩ phải chăng đây chỉ là sự ngẩu nhiên khi thành phố Strasbourg, phía Đông-Bắc, nằm sát Đức, gần như một thành phố của Đức, có thời gian dài thuộc Đức (2 tỉnh alsace và Lorraine) lại có được tới 10% dân chúng xử dụng xe đạp di chuyển?

Người ta cho rằng ở những nước  Bắc âu có tính hợp lý thực tế mà các nước la-tinh không có.  Điều này liên hệ với truyền thống tin lành. Trên thực tế, người ta thấy rỏ ở những nước văn hóa la-tinh có nhiều xe hơi hơn ở những nước theo tin lành. Người tin lành trọng sự cực khổ, tính hợp lý, sự hữu hiệu mà những điều này dễ tìm thấy ở sự xử dụng xe đạp (theo Max Weber trong “ Léthique protestante et lesprit du capitalisme ”).

Họ lý luận không thể xử dụng một dụng cụ nặng cả tấn, thảy ra cũng cả tấn CO2/năm mà chỉ chở có 1 hay 2 người không quá 150 kg.
Trong đời sống gia đình cũng vậy, người hòa-lan tính toán rất kỷ lưởng. Họ sống theo chương trình, làm việc theo kế hoặch, ăn uống theo ngân sách dự chi. Một người tiêu xài trung bình cho ăn uống khoảng 200e/tháng thêm 50e cho quần áo, giày giép. Còn xe cộ, xăng nhớt, giao tế, tính riêng. Người đi làm mang theo vài lát bánh mì, bơ, thịt nguội ăn trưa. Tây ăn trưa phải ở nhà hàng hay căn-tin, nhưng phải đủ 3 món, tráng miệng, phó-mác và chai rượu chát.

Người hòa-lan có tiếng là hà tiện. Chuyện không cần, 1 xu, họ không bỏ ra. Nhưng khi chánh phủ kêu gọi làm từ thiện thì họ mở hầu bao dễ dàng.

Về tánh hà tiện hòa-lan, có câu chuyện thật và xảy ra ở Pháp. Cặp vợ chồng trẻ chở bà mẹ vợ qua Pháp nghỉ hè. Chẳng may, bà chết bất ngờ vì tim mạch. Hai vợ chồng vội về Hòa-lan để chôn cất mẹ. Họ đặt bà mẹ vào cái hộp hành lý như chiếc thuyền nhỏ gắn trên mui xe chở thẳng về Hòa-lan cho đở tốn kém nếu khai báo ở Pháp.

Mỗi khi Cỏ May trông thấy xe hòa-lan nào có chở trên mui cái hộp hành lý là nghĩ ngay không biết trong đó là hành lý hay bà mẹ vợ?
Người Việt nam ở Hòa-lan

Khi có phong trào tỵ nạn cộng sản, người Việt nam tới Hòa-lan vào đầu thâp niên 80 của thế kỷ trước vào khoảng 15 000 người. Trong số này, ngày nay, có 99% sanh sống hoàn toàn hợp pháp. Số còn lại tới sau này. Và phức tạp nên đã ảnh hưởng ít nhiều không mấy đẹp cho cộng đồng người việt ở Hòa-lan.

Người việt nam ở Hòa-lan phần lớn làm công nhơn trong các xưởng. Số ít bán chả giò ở chợ trời. Lại kiếm được khá tiền hơn đi làm lảnh lương. It nhứt cũng được 2000 e /tháng mà thì giờ ít hơn. Chỉ bán một hai buổi chợ / tuần. Nhưng ngày nay, số người bán chả giò ít đi dần vì lớn tuổi. Con em không nối nghiệp vì không chịu nổi nắng mưa.
Thế hệ II thành công hơn. Có nhiều người học giỏi tuy tiếng hòa-lan rất khó học vì thứ tiếng chẳng giống ai cả.
Sau này, có sinh viên từ Việt nam qua du học. Lối 1500 cô cậu theo học các Đại học hòa-lan và học bằng tiếng anh. Phần đông theo các nghành thương mải, kinh tế. Chúng nó ít tiếp xúc với bà con người việt nam có lẽ không được phép của công an ở Tòa Đại sứ.

Theo một người bạn lớn tuồi, làm Tham vấn gia đình nay hưu trí, nhận xét Hòa Lan rất hòa đồng cởi mở, khôn ngoan, kế hoạch tính trước cả trăm năm vì nước nhỏ ở ngay ngả tư quốc tế và cạnh các đế quốc sừng sỏ. Họ không kỳ thị mà mình hội nhập không vô, mình chỉ thích ứng từng bước thôi. Tiếng hòa Lan khó học. Làm việc gì cũng đòi hỏi phải có bằng cắp. Có đũ tiền mở tiệm hớt tóc, phải có bằng tốt nghiệp hớt tóc. Muốn mở tiệm bán quần áo, phải đến khai ở phòng thương mại, phòng thương mại hỏi bằng kinh tế.

Còn kinh doanh chung với người Hòa Lan, trước sau gì cơ sở của mình cũng sẽ qua tay họ một cách danh chính, ngôn thuận, chớ không hề bị lường gạt, cướp đoạt như ở Việt nam mà điển hình trước đây là trường hợp người hòa-lan gốc việt Trịnh Vỉnh Bình.

Tiếng hòa lan khó nên là trở ngại cho sự hội nhập của thế hệ sau. Nhưng là cái hay cho trẻ con việt nam hầu hết, lớn nhỏ, đều nói rành tiếng việt. Với cha mẹ và cả với chúng nó. Khác hơn trẻ con ở Pháp.

Nếp sống và cách suy nghĩ của người hòa-lan có nhiều điều đáng cho người việt ở Hòa-lan học hỏi.

Người hòa-lan nói “Xứ Hòa-lan nhỏ, tiếng nói quá khó khăn nên ít ai chịu học. Để mở rộng quan hệ ra bên ngoài, người Hòa-lan phải chịu khó học nhiều tiếng nước ngoài”.
Nguyễn Thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.