Hôm nay,  

Lãi Suất và Đồng Đô La

3/25/201500:00:00(View: 7171)

...tiền Mỹ lên giá quá mạnh khiến tư bản chảy ngược về Hoa Kỳ.

Một mối nguy đang đe dọa Âu Châu và các nền kinh tế nhỏ trên thế giới. Đó là tiền Mỹ lên giá quá mạnh khiến tư bản chảy ngược về Hoa Kỳ. Nếu Ngân hàng Trung ương Mỹ lại tăng lãi suất làm tiền Mỹ càng lên giá thì tình hình còn nguy ngập hơn nữa. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu chuyện ấy qua cuộc phỏng vấn sau đây của Việt Long với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Việt Long: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, sáu tháng về trước, ông phân tích việc Mỹ kim lên giá so với các ngoại tệ khác và nói rằng việc đó có thể dẫn đến nhiều biến động cho các nền kinh tế đang phát triển trong năm 2015 này. Quả nhiên là chúng ta thấy ngay một vụ khủng hoảng về ngoại hối vào Tháng 10 năm ngoái khi Liên bang Nga đột ngột tăng lãi suất để vực giá đồng bạc mà tiền Nga vẫn rớt giá. Tuần qua, người ta còn chứng kiến việc tư bản Âu Châu cùng nhiều xứ khác tiếp tục chảy về Mỹ và chiều hướng này sẽ gia tăng khi Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ nâng lãi suất trong mấy tháng tới. Vì vậy, kỳ này, chúng ta tìm hiểu về việc vì sao Hoa Kỳ có thể tăng lãi suất và hậu quả sẽ là những gì cho các nước khác.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin được bắt đầu với chuyện u Châu, rồi mình sẽ theo dõi tình hình các nước khác, sau đó mới phân tích chuyện lãi suất tại Hoa Kỳ.

Trước hết, Âu Châu chưa ra khỏi khủng hoảng và hồ sơ Hy Lạp đe dọa sự vẹn toàn của đồng Euro khi xứ này đã cạn tiền mà phải trả nợ theo một lịch trình rất khắt khe từ nay đến cuối năm. Tình trạng đó đã là một mối nguy khiến tiền Âu Châu mất giá so với tiền Mỹ và sẽ còn mất giá nữa.

Chuyện thứ hai là khi các thị trường quốc tế đều theo dõi từng lời phát biểu của Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ để dự đoán về quyết định tăng lãi suất hay không và bao giờ sẽ tăng thì Ngân hàng Trung ương Âu châu vẫn duy trì lãi suất thấp và khởi sự chương trình bơm tiền để kích thích kinh tế. Hai chiều hướng đó khiến giới đầu tư tìm nơi có tiềm năng sinh lời cao hơn và đấy là thị trường Hoa Kỳ. Họ đổi tiền qua đô la để đầu tư vào nước Mỹ.

Việt Long: Thưa ông, Liên hiệp Âu châu có 28 quốc gia và chỉ có 19 nước là sử dụng đồng Euro, còn nhiều xứ khác tương đối vẫn còn vững mạnh. Thế thì vì sao giới đầu tư không rót tiền về các xứ đó mà lại chọn thị trường Mỹ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Việc tư bản Âu châu ra khỏi khối Euro để dồn vào các nước u châu khác đã xảy ra, như khi người ta mua đồng Phật lăng của Thụy Sĩ hay đồng Krone của Đan Mạch. Nhưng hậu quả là lại làm các đồng bạc Âu châu ngoài khối Euro lên giá và gây bất lợi cho việc xuất khẩu nên các xứ này cũng ráo riết cắt lãi suất, bơm thêm tiền, thậm chí còn bắt giới ký thác phải trả thêm tiền thay vì được thưởng khi đem tiết kiệm bỏ vào ngân hàng. Vì thế mà tư bản mới tháo khỏi Âu Châu mà chảy về Mỹ. Ngoài ra, nhiều xứ Trung Đông hay Đông Á cũng tính như vậy và dồn tiền về Mỹ cho an toàn và có lời hơn. Mà điều ấy cũng gây bất lợi cho Hoa Kỳ vì làm cho đồng đô la và Công khố phiếu càng lên giá.

Việt Long: Bây giờ ta mới trở lại chuyện nước Mỹ có thể tăng lãi suất. Sự thể ấy là như thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đầu tiên, ta cần phân biệt lãi suất dài hạn và lãi suất ngắn hạn.

Tại Hoa Kỳ, lãi suất dài hạn được thả nổi cho thị trường quyết định theo quy luật cung cầu. Đấy là “phân lời” hay yield của tờ Trái phiếu là tờ giấy nợ. Nó tăng hay giảm là do thị trường. Nếu tiền nhiều và đi vay dễ thì trị giá trái phiếu sẽ tăng mà phân lời lại giảm. Đấy là điều bất lợi cho ai có tiết kiệm vì được trả tiền lời quá thấp. Khi theo dõi tin tức thị trường, ta nên nhớ đến quy luật đó, giả dụ như qua đề tựa của bản tin là “Trái phiếu lên giá” thì có nghĩa là tiền lời giảm. Ngược lại, khi có tin là “Trái phiếu sụt giá”, điều ấy có nghĩa là phân lời tăng.

Việt Long: Thưa ông, đấy là lãi suất dài hạn. Còn lãi suất ngắn hạn thì sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lãi suất ngắn hạn là thuộc thẩm quyền của Ngân hàng Trung ương Mỹ.

Đây là định chế độc lập có quyền quyết định về lãi suất ngắn hạn theo hai yêu cầu là 1) ổn định tiền tệ, là không để lạm phát xảy ra tại Hoa Kỳ và 2) là tạo điều kiện phát triển kinh tế cho dân Mỹ có công ăn việc làm, tức là giảm thiểu nạn thất nghiệp. Định chế này có một ủy ban hữu trách về chính sách tiền tệ và tín dụng, gọi tắt là FOMC, thường thì sáu bảy tuần lại họp một lần, một năm tám lần, để rà soát tình hình kinh tế và quyết định về lãi suất ngắn hạn nếu thấy cần.

Lãi suất ấy được gọi là “federal funds rate”, hay Fed Fund, hay lãi suất liên ngân hàng mà các ngân hàng tính cho nhau khi nhất thời thiếu thanh khoản hay bạc mặt. Từ lãi suất nền đó, các ngân hàng tính thêm nhiều nấc tiền lời cho thân chủ đi vay tùy mức rủi ro. Nếu lãi suất cơ bản này mà thấp thì người ta vay tiền rẻ và dễ hơn nên sẽ nâng mức lưu hoạt kinh tế. Ngược lại, nếu tiền quá rẻ thì dễ gây ra lạm phát nên lãi suất có thể tăng, làm lượng tiền lưu hành trong kinh tế lại giảm.

Việt Long: Thưa ông, khi người ta nói rằng Ngân hàng Trung ương Mỹ bơm tiền hoặc in bạc thì chuyện ấy có nghĩa cụ thể như thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi ta nghe tin Ngân hàng Trung ương bơm tiền hoặc in tiền thì đấy không là việc có ai vào nhà máy in của viện phát hành bấm nút để in ra vài tỷ bạc rồi đưa cho ai đó xài. Việc “phát hành tiền tệ” là do hành động của các ngân hàng và người đi vay để tiêu thụ hay sản xuất. Mỗi nghiệp vụ đi vay hay chi tiêu lại là một quyết định phát hành tiền tệ của thị trường và lãi suất cao thấp là quyết định của Ngân hàng Trung ương để điều tiết lượng tiền hút vào hay bơm ra của thị trường. Lãi suất ấy có thể chỉ nhích vài điểm - một điểm cơ bản là một phần trăm của 1% - là ảnh hưởng đến nhiều tỷ bạc và đến trị giá của đồng đô la. Tức là một cách gián tiếp và trong lâu dài sau nhiều tháng thì lãi suất ngắn hạn ấy cũng chi phối phân lời trái phiếu, là lãi sất dài hạn của thị trường.

Việt Long: Bây giờ ta mới tìm hiểu về yếu tố quyết định của Ngân hàng Trung ương Mỹ. Như ông vừa trình bày thì có phải là định chế này tập trung chú ý vào tình hình vật giá hay thất nghiệp tại Hoa Kỳ chứ chẳng mấy quan tâm đến hậu quả rộng lớn cho các nước khác?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Câu hỏi rất hay vì cho thấy cơ quan chuyên môn này có chức năng phục vụ các mục tiêu viết trên giấy trắng mực đen dưới sự giám sát của Quốc hội. Nội việc đó cũng đã không dễ, mà Ngân hàng Trung ương Mỹ còn hay bị phê phán theo hai hướng. Xu hướng thiên tả thường muốn có lãi suất hạ và tiền nhiều mà chẳng sợ lạm phát. Xu hướng hữu khuynh bảo thủ thì cho là nên canh chừng lạm phát và nâng lãi suất để giới tiết kiệm có lời khi gửi tiền vào ngân hàng cho người khác vay. Cả hai xu hướng này đều không mấy quan tâm đến hiệu ứng cho xứ khác.

Điều ấy cho thấy là nhiều người có thể nghĩ sai khi lý luận rằng Hoa Kỳ có âm mưu tăng lãi suất hay nâng giá đồng bạc để đánh gục kinh tế của một xứ nào khác, thí dụ như Nga hay Tầu!

Việt Long: Ra khỏi lập luận thiên về chính trị như ông vừa giải thích mà chỉ lưu tâm vào quyền lợi của Hoa Kỳ theo hai mục tiêu là ổn định vật giá và giảm thiểu thất nghiệp với hậu quả lâu dài là làm hạ lãi suất dài hạn, thì giới chức Ngân hàng Trung ương Mỹ họp hành tính toán ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Định chế này có cả chục trung tâm nghiên cứu rất có uy tín của hệ thống ngân hàng dự trữ ở 12 khu vực trên toàn quốc và tại trung ương họ cũng có bộ phận thường xuyên theo dõi tình hình kinh tế Hoa Kỳ để dự đoán về tương lai. Từ nhiều năm nay, họ thông báo là sẽ áp dụng một chính sách linh động để thứ nhất duy trì mức lạm phát ở khoảng 2% mà thôi và thứ hai là đạt tỷ lệ thất nghiệp trong dài hạn ở khoảng từ 5% đến 5,5%. Sau mỗi kỳ họp của Ủy ban Tiền tệ FOMC thì Thống đốc cũng có một thông báo ngắn gọn về quyết định của Ủy ban.

Vì lãi suất ngắn hạn được duy trì quá lâu ở gần số không, khi thất nghiệp tại Mỹ đã giảm tới mức 5,5%, các thị trường tài chính tại Hoa Kỳ và quốc tế đều cho là lãi suất tại Mỹ sẽ tăng. Họ theo dõi các thống kê kinh tế lẫn từng lời phát biểu của Ngân hàng Trung ương để dự đoán là tăng bao nhiêu điểm qua mấy đợt, vào thời điểm nào, như Tháng Sáu hay Tháng Chín, Tháng 10 năm nay hay năm tới. Các phát biểu và bình luận ấy đều tác động ngay vào thị trường theo kiểu biện chứng.

Thí dụ như hôm Thứ Sáu mùng sáu đầu tháng, khi Bộ Lao động cho biết thất nghiệp đã giảm thì lập tức cổ phiếu tại Mỹ sụt giá mạnh. Tức là một tin vui về kinh tế dẫn tới kết luận là lãi suất sẽ tăng, mà lãi suất tăng thì doanh lợi giảm nên thị trường chứng khoán mất giá. Cùng lúc ấy, thị trường hối đoái hay ngoại hối cũng biến động vì lãi suất tăng sẽ làm đô la lên giá nữa và nếu đô la lên giá thì các tập đoàn thiên về xuất khẩu sẽ khó bán hàng hơn và mất lời, nên cổ phiếu của các doanh nghiệp này cũng sụt giá từ một tin vui!

Việt Long: Phải theo dõi từng loạt tin tức và những chuỗi lý luận theo kiểu liên hoàn mắc mứu với nhau như vậy thì ông dự đoán ra sao về lãi suất ngắn hạn tại Hoa Kỳ, và về đồng đô la?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta thật khó biết trước được vì hoàn cảnh tôi xin gọi là “tranh tối tranh sang” hiện nay. Quả thật là thất nghiệp đang trở lại mức bình thường trên bề mặt, nhưng bên dưới thì phẩm chất vẫn rất kém vì số người thật sự tham gia thị trường lao động còn ở mức thấp nhất từ mấy chục năm nay. Xét theo một khía cạnh khác thì lợi tức của lực lượng lao động này, đo ở mức lương bình quân, thì cũng còn quá thấp mà đa số thành phần kiếm ra việc đều có lương thấp nên hy vọng có thể tăng mức tiêu xài và kích thích sản xuất thật ra vẫn còn mong manh. Vì thế, chưa chắc là lãi suất tại Mỹ sẽ tăng vào Tháng Ba này như một số người dự báo.

Huống hồ là ta nhìn vào tình hình vật giá tại Mỹ. Lãi suất có thể tăng khi lạm phát lên gần tới 2%, nhưng các chỉ số đều cho thấy vật giá của nhu yếu phẩm như lương thực và xăng dầu lại giảm. Việc dầu thô sụt giá có góp phần làm giảm nguy cơ lạm phát nên Ngân hàng Trung ương Mỹ chưa vội tăng lãi suất. Vì thế người ta thiên dần về kịch bản lãi suất tại Hoa Kỳ chỉ tăng rất nhẹ từ Tháng Chín, Tháng 10, qua tới năm sau mới nhúc nhích. Nhưng chẳng vì vậy mà đô la sẽ ngừng lên giá vì hối suất hay tỷ giá đồng bạc này còn tùy vào các nền kinh tế và ngoại tệ khác.

Kết luận ở đây là Hoa Kỳ lấy quyết định là vì quyền lợi của mình, nhưng các quyết định ấy đều có thể chi phối xứ khác và người ta nên mở tầm nhìn thật rộng để hiểu ra các yếu tố có thể tác động vào lợi tức, tài sản hay sự an toàn của mình.

Việt Long: Xin cảm tạ ông Nghĩa về việc phân tích này.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Bằng cách làm suy yếu các đồng minh của Mỹ, chính quyền Trump đã làm suy yếu việc răn đe mở rộng của Mỹ, khiến nhiều quốc gia cân nhắc liệu họ có nên có vũ khí hạt nhân cho riêng mình không. Nhưng ý tưởng về việc phổ biến vũ khí hạt nhân nhiều hơn có thể ổn định dựa trên nền tảng của các giả định sai lầm.
Tạp chí TIMES kết thúc cuộc phỏng vấn với Tổng thống Trump nhân dịp đánh dấu 100 ngày ông ta quay lại Tòa Bạch Ốc (20/1/2025) bằng câu hỏi, “John Adams, một công thần lập quốc, vị tổng thống thứ hai của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (1797 – 1801) đã nói chúng ta là một quốc gia pháp trị, chứ không phải bất kỳ người nào, Tổng thống đồng ý không?” Donald Trump trả lời: “Chúng ta là một chính phủ do luật pháp cai trị, không phải do con người sao? Ồ, tôi nghĩ vậy, nhưng anh biết đấy, phải óc ai đó quản lý luật pháp. Bởi nên, con người, nam hoặc nữ, chắc chắn đóng một vai trò trong đó. Tôi không đồng ý với điều đó 100%. Chúng ta là một chính phủ mà con người tham gia vào quá trình thực thi luật pháp, và lý tưởng nhất là anh sẽ có những người công chính như tôi.”
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.