Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Lãi Suất và Đồng Đô La

25/03/201500:00:00(Xem: 6853)

...tiền Mỹ lên giá quá mạnh khiến tư bản chảy ngược về Hoa Kỳ.

Một mối nguy đang đe dọa Âu Châu và các nền kinh tế nhỏ trên thế giới. Đó là tiền Mỹ lên giá quá mạnh khiến tư bản chảy ngược về Hoa Kỳ. Nếu Ngân hàng Trung ương Mỹ lại tăng lãi suất làm tiền Mỹ càng lên giá thì tình hình còn nguy ngập hơn nữa. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu chuyện ấy qua cuộc phỏng vấn sau đây của Việt Long với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Việt Long: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, sáu tháng về trước, ông phân tích việc Mỹ kim lên giá so với các ngoại tệ khác và nói rằng việc đó có thể dẫn đến nhiều biến động cho các nền kinh tế đang phát triển trong năm 2015 này. Quả nhiên là chúng ta thấy ngay một vụ khủng hoảng về ngoại hối vào Tháng 10 năm ngoái khi Liên bang Nga đột ngột tăng lãi suất để vực giá đồng bạc mà tiền Nga vẫn rớt giá. Tuần qua, người ta còn chứng kiến việc tư bản Âu Châu cùng nhiều xứ khác tiếp tục chảy về Mỹ và chiều hướng này sẽ gia tăng khi Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ nâng lãi suất trong mấy tháng tới. Vì vậy, kỳ này, chúng ta tìm hiểu về việc vì sao Hoa Kỳ có thể tăng lãi suất và hậu quả sẽ là những gì cho các nước khác.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin được bắt đầu với chuyện u Châu, rồi mình sẽ theo dõi tình hình các nước khác, sau đó mới phân tích chuyện lãi suất tại Hoa Kỳ.

Trước hết, Âu Châu chưa ra khỏi khủng hoảng và hồ sơ Hy Lạp đe dọa sự vẹn toàn của đồng Euro khi xứ này đã cạn tiền mà phải trả nợ theo một lịch trình rất khắt khe từ nay đến cuối năm. Tình trạng đó đã là một mối nguy khiến tiền Âu Châu mất giá so với tiền Mỹ và sẽ còn mất giá nữa.

Chuyện thứ hai là khi các thị trường quốc tế đều theo dõi từng lời phát biểu của Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ để dự đoán về quyết định tăng lãi suất hay không và bao giờ sẽ tăng thì Ngân hàng Trung ương Âu châu vẫn duy trì lãi suất thấp và khởi sự chương trình bơm tiền để kích thích kinh tế. Hai chiều hướng đó khiến giới đầu tư tìm nơi có tiềm năng sinh lời cao hơn và đấy là thị trường Hoa Kỳ. Họ đổi tiền qua đô la để đầu tư vào nước Mỹ.

Việt Long: Thưa ông, Liên hiệp Âu châu có 28 quốc gia và chỉ có 19 nước là sử dụng đồng Euro, còn nhiều xứ khác tương đối vẫn còn vững mạnh. Thế thì vì sao giới đầu tư không rót tiền về các xứ đó mà lại chọn thị trường Mỹ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Việc tư bản Âu châu ra khỏi khối Euro để dồn vào các nước u châu khác đã xảy ra, như khi người ta mua đồng Phật lăng của Thụy Sĩ hay đồng Krone của Đan Mạch. Nhưng hậu quả là lại làm các đồng bạc Âu châu ngoài khối Euro lên giá và gây bất lợi cho việc xuất khẩu nên các xứ này cũng ráo riết cắt lãi suất, bơm thêm tiền, thậm chí còn bắt giới ký thác phải trả thêm tiền thay vì được thưởng khi đem tiết kiệm bỏ vào ngân hàng. Vì thế mà tư bản mới tháo khỏi Âu Châu mà chảy về Mỹ. Ngoài ra, nhiều xứ Trung Đông hay Đông Á cũng tính như vậy và dồn tiền về Mỹ cho an toàn và có lời hơn. Mà điều ấy cũng gây bất lợi cho Hoa Kỳ vì làm cho đồng đô la và Công khố phiếu càng lên giá.

Việt Long: Bây giờ ta mới trở lại chuyện nước Mỹ có thể tăng lãi suất. Sự thể ấy là như thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đầu tiên, ta cần phân biệt lãi suất dài hạn và lãi suất ngắn hạn.

Tại Hoa Kỳ, lãi suất dài hạn được thả nổi cho thị trường quyết định theo quy luật cung cầu. Đấy là “phân lời” hay yield của tờ Trái phiếu là tờ giấy nợ. Nó tăng hay giảm là do thị trường. Nếu tiền nhiều và đi vay dễ thì trị giá trái phiếu sẽ tăng mà phân lời lại giảm. Đấy là điều bất lợi cho ai có tiết kiệm vì được trả tiền lời quá thấp. Khi theo dõi tin tức thị trường, ta nên nhớ đến quy luật đó, giả dụ như qua đề tựa của bản tin là “Trái phiếu lên giá” thì có nghĩa là tiền lời giảm. Ngược lại, khi có tin là “Trái phiếu sụt giá”, điều ấy có nghĩa là phân lời tăng.

Việt Long: Thưa ông, đấy là lãi suất dài hạn. Còn lãi suất ngắn hạn thì sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lãi suất ngắn hạn là thuộc thẩm quyền của Ngân hàng Trung ương Mỹ.

Đây là định chế độc lập có quyền quyết định về lãi suất ngắn hạn theo hai yêu cầu là 1) ổn định tiền tệ, là không để lạm phát xảy ra tại Hoa Kỳ và 2) là tạo điều kiện phát triển kinh tế cho dân Mỹ có công ăn việc làm, tức là giảm thiểu nạn thất nghiệp. Định chế này có một ủy ban hữu trách về chính sách tiền tệ và tín dụng, gọi tắt là FOMC, thường thì sáu bảy tuần lại họp một lần, một năm tám lần, để rà soát tình hình kinh tế và quyết định về lãi suất ngắn hạn nếu thấy cần.

Lãi suất ấy được gọi là “federal funds rate”, hay Fed Fund, hay lãi suất liên ngân hàng mà các ngân hàng tính cho nhau khi nhất thời thiếu thanh khoản hay bạc mặt. Từ lãi suất nền đó, các ngân hàng tính thêm nhiều nấc tiền lời cho thân chủ đi vay tùy mức rủi ro. Nếu lãi suất cơ bản này mà thấp thì người ta vay tiền rẻ và dễ hơn nên sẽ nâng mức lưu hoạt kinh tế. Ngược lại, nếu tiền quá rẻ thì dễ gây ra lạm phát nên lãi suất có thể tăng, làm lượng tiền lưu hành trong kinh tế lại giảm.

Việt Long: Thưa ông, khi người ta nói rằng Ngân hàng Trung ương Mỹ bơm tiền hoặc in bạc thì chuyện ấy có nghĩa cụ thể như thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi ta nghe tin Ngân hàng Trung ương bơm tiền hoặc in tiền thì đấy không là việc có ai vào nhà máy in của viện phát hành bấm nút để in ra vài tỷ bạc rồi đưa cho ai đó xài. Việc “phát hành tiền tệ” là do hành động của các ngân hàng và người đi vay để tiêu thụ hay sản xuất. Mỗi nghiệp vụ đi vay hay chi tiêu lại là một quyết định phát hành tiền tệ của thị trường và lãi suất cao thấp là quyết định của Ngân hàng Trung ương để điều tiết lượng tiền hút vào hay bơm ra của thị trường. Lãi suất ấy có thể chỉ nhích vài điểm - một điểm cơ bản là một phần trăm của 1% - là ảnh hưởng đến nhiều tỷ bạc và đến trị giá của đồng đô la. Tức là một cách gián tiếp và trong lâu dài sau nhiều tháng thì lãi suất ngắn hạn ấy cũng chi phối phân lời trái phiếu, là lãi sất dài hạn của thị trường.

Việt Long: Bây giờ ta mới tìm hiểu về yếu tố quyết định của Ngân hàng Trung ương Mỹ. Như ông vừa trình bày thì có phải là định chế này tập trung chú ý vào tình hình vật giá hay thất nghiệp tại Hoa Kỳ chứ chẳng mấy quan tâm đến hậu quả rộng lớn cho các nước khác?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Câu hỏi rất hay vì cho thấy cơ quan chuyên môn này có chức năng phục vụ các mục tiêu viết trên giấy trắng mực đen dưới sự giám sát của Quốc hội. Nội việc đó cũng đã không dễ, mà Ngân hàng Trung ương Mỹ còn hay bị phê phán theo hai hướng. Xu hướng thiên tả thường muốn có lãi suất hạ và tiền nhiều mà chẳng sợ lạm phát. Xu hướng hữu khuynh bảo thủ thì cho là nên canh chừng lạm phát và nâng lãi suất để giới tiết kiệm có lời khi gửi tiền vào ngân hàng cho người khác vay. Cả hai xu hướng này đều không mấy quan tâm đến hiệu ứng cho xứ khác.

Điều ấy cho thấy là nhiều người có thể nghĩ sai khi lý luận rằng Hoa Kỳ có âm mưu tăng lãi suất hay nâng giá đồng bạc để đánh gục kinh tế của một xứ nào khác, thí dụ như Nga hay Tầu!

Việt Long: Ra khỏi lập luận thiên về chính trị như ông vừa giải thích mà chỉ lưu tâm vào quyền lợi của Hoa Kỳ theo hai mục tiêu là ổn định vật giá và giảm thiểu thất nghiệp với hậu quả lâu dài là làm hạ lãi suất dài hạn, thì giới chức Ngân hàng Trung ương Mỹ họp hành tính toán ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Định chế này có cả chục trung tâm nghiên cứu rất có uy tín của hệ thống ngân hàng dự trữ ở 12 khu vực trên toàn quốc và tại trung ương họ cũng có bộ phận thường xuyên theo dõi tình hình kinh tế Hoa Kỳ để dự đoán về tương lai. Từ nhiều năm nay, họ thông báo là sẽ áp dụng một chính sách linh động để thứ nhất duy trì mức lạm phát ở khoảng 2% mà thôi và thứ hai là đạt tỷ lệ thất nghiệp trong dài hạn ở khoảng từ 5% đến 5,5%. Sau mỗi kỳ họp của Ủy ban Tiền tệ FOMC thì Thống đốc cũng có một thông báo ngắn gọn về quyết định của Ủy ban.

Vì lãi suất ngắn hạn được duy trì quá lâu ở gần số không, khi thất nghiệp tại Mỹ đã giảm tới mức 5,5%, các thị trường tài chính tại Hoa Kỳ và quốc tế đều cho là lãi suất tại Mỹ sẽ tăng. Họ theo dõi các thống kê kinh tế lẫn từng lời phát biểu của Ngân hàng Trung ương để dự đoán là tăng bao nhiêu điểm qua mấy đợt, vào thời điểm nào, như Tháng Sáu hay Tháng Chín, Tháng 10 năm nay hay năm tới. Các phát biểu và bình luận ấy đều tác động ngay vào thị trường theo kiểu biện chứng.

Thí dụ như hôm Thứ Sáu mùng sáu đầu tháng, khi Bộ Lao động cho biết thất nghiệp đã giảm thì lập tức cổ phiếu tại Mỹ sụt giá mạnh. Tức là một tin vui về kinh tế dẫn tới kết luận là lãi suất sẽ tăng, mà lãi suất tăng thì doanh lợi giảm nên thị trường chứng khoán mất giá. Cùng lúc ấy, thị trường hối đoái hay ngoại hối cũng biến động vì lãi suất tăng sẽ làm đô la lên giá nữa và nếu đô la lên giá thì các tập đoàn thiên về xuất khẩu sẽ khó bán hàng hơn và mất lời, nên cổ phiếu của các doanh nghiệp này cũng sụt giá từ một tin vui!

Việt Long: Phải theo dõi từng loạt tin tức và những chuỗi lý luận theo kiểu liên hoàn mắc mứu với nhau như vậy thì ông dự đoán ra sao về lãi suất ngắn hạn tại Hoa Kỳ, và về đồng đô la?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta thật khó biết trước được vì hoàn cảnh tôi xin gọi là “tranh tối tranh sang” hiện nay. Quả thật là thất nghiệp đang trở lại mức bình thường trên bề mặt, nhưng bên dưới thì phẩm chất vẫn rất kém vì số người thật sự tham gia thị trường lao động còn ở mức thấp nhất từ mấy chục năm nay. Xét theo một khía cạnh khác thì lợi tức của lực lượng lao động này, đo ở mức lương bình quân, thì cũng còn quá thấp mà đa số thành phần kiếm ra việc đều có lương thấp nên hy vọng có thể tăng mức tiêu xài và kích thích sản xuất thật ra vẫn còn mong manh. Vì thế, chưa chắc là lãi suất tại Mỹ sẽ tăng vào Tháng Ba này như một số người dự báo.

Huống hồ là ta nhìn vào tình hình vật giá tại Mỹ. Lãi suất có thể tăng khi lạm phát lên gần tới 2%, nhưng các chỉ số đều cho thấy vật giá của nhu yếu phẩm như lương thực và xăng dầu lại giảm. Việc dầu thô sụt giá có góp phần làm giảm nguy cơ lạm phát nên Ngân hàng Trung ương Mỹ chưa vội tăng lãi suất. Vì thế người ta thiên dần về kịch bản lãi suất tại Hoa Kỳ chỉ tăng rất nhẹ từ Tháng Chín, Tháng 10, qua tới năm sau mới nhúc nhích. Nhưng chẳng vì vậy mà đô la sẽ ngừng lên giá vì hối suất hay tỷ giá đồng bạc này còn tùy vào các nền kinh tế và ngoại tệ khác.

Kết luận ở đây là Hoa Kỳ lấy quyết định là vì quyền lợi của mình, nhưng các quyết định ấy đều có thể chi phối xứ khác và người ta nên mở tầm nhìn thật rộng để hiểu ra các yếu tố có thể tác động vào lợi tức, tài sản hay sự an toàn của mình.

Việt Long: Xin cảm tạ ông Nghĩa về việc phân tích này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.