Hôm nay,  

Lời Tạ Ơn Và Nguyện Cầu Nhân Xuân Ất Mùi

12/10/201400:00:00(View: 3536)

Những dân tộc có lòng biết ơn, nhớ ơn là những dân tộc đã có một đời sống duy tâm sâu đậm, họ được sự chúc lành của Thượng Đế. Như dân tộc Mỹ, họ có ngày lễ tạ ơn (Thanksgiving) để cả gia đình được sum hợp. Dân tộc Việt cũng là một dân tộc nặng lòng biết ơn, nhớ ơn những kẻ đã sinh thành: như cha mẹ, ông bà, thầy cô giáo, kẻ cứu tử lúc lâm nạn ở biển khơi. Theo tuần tự của thời gian, vào dịp Lễ, Tết hoặc ngày kỷ niệm. Chúng ta hay tỏ bày tình cảm như thăm viếng, tặng quà, ăn uống, để mừng vui được gặp nhau sau những ngày vất vả bon chen ở ngoài đời. Đây là một truyền thống đẹp của thật nhiều các dân tộc. Trong đó có dân tộc Việt.

Những ngày Tết mừng xuân Ất Mùi này cũng là ngày để dân tộc Việt, nhất là những người tỵ nạn có mặt khắp nơi trên thế giới hướng lòng về quê hương xứ sở. Nơi còn nhiều nỗi đau, nỗi khổ của cả một dân tộc đã bị đảng CS hành hạ gần cả trăm năm, đến nỗi ngày nay người dân ở trong nước: giới trẻ thì bị bán đi làm lao nô ở khắp các quốc gia giầu có, trẻ em thì bị mua bán đổi chác đi làm điếm, phục vụ tình dục cho ngoại bang. Đất nước đang bị mua bán và đổi chác cho Trung Cộng. Còn về nội trị thì công an nhiều khi lánh mặt mà họ dùng bọn côn đồ, đánh đập, hành hung những người bất đồng chính kiến, những người khiếu kiện. Những người may mắn trốn thoát được cái đảng khốn nạn ấy, dù phải xa quê hương, xa xứ sở, có tự do, có dân chủ và Nhân Quyền thực. Nhưng khi ngày lễ tết cổ truyền hàng năm đến, là ngày họ dâng lời tạ ơn Thượng Đế, tạ ơn Người, tạ ơn các nước sở tại đã cưu mang họ cho đến ngày nay.

Thật vậy, lúc ghe thuyền dời bến trong đêm tối mịt mù, phần đông những người vượt biên, vượt biển không được ở trên hầm ghe, mà phải chen chúc nhau ở dưới hầm, những khoang thuyền nên chẳng thấy biển cả, không thể chứng kiến được những nghịch cảnh khi khởi hành. Nếu chẳng may gặp họa khi nước bên ngoài rò rỉ vào, hay bị công an biên phòng cộng sản rượt đuổi, hoặc bị bọn hải tặc cướp biển thì những người nằm dưới khoang thuyền bên dưới mới được lên và thấy những sự việc xẩy ra ở bên trên ghe, hay bên ngoài nghe. Nhưng tất cả những người đã đi vượt biển, khi đã vào được bến bờ bình yên vì hết lòng tạ ơn Trời, tạ ơn Người đã phù trợ, cứu giúp mình khi vượt thoát.

Ngày nay, sau khi vượt thoát, may mắn đến bến bờ bình yên, phần đông chúng ta mau quên quá khứ. Do những nguyên nhân bên ngoài thúc đẩy, vì còn ông bà, cha mẹ, anh chị em, nên chúng ta rất vô tư, quên quá khứ, về thăm thân nhân. Dù rằng việc về thăm của chúng ta xa gần cũng lọt vào cái bẫy của cộng sản. Họ rất cần tiến, rất cần ngoại tệ. Nhờ có ngoại tệ cộng sản Việt Nam mới kiến thiết, mở mang được phần nào cái bề ngoài hào nháng như hiện nay, và thật tâm cán bộ CS mới có mòi bớt xén, tham nhũng như bây giờ. Nhờ tham nhũng mà ngày nay ở trong nước mới có thêm một giai cấp là Tư Bản Đỏ. Họ giầu nhanh, giầu tắt, không qua công khó và chắt chịu, mà nhờ vào hối lộ. Những bữa tiệc cuối tuần linh đình mà phần ăn được tính mỗi đầu người bằng đô la, hơn cả những người đi làm công ở các quốc gia tiên tiến mỗi tháng, cũng chỉ nhận được khoảng 1500 đô la.

Đêm Xuân, nhớ quê hương xứ sở, hướng lòng lên Đấng tối cao khẩn nguyện cho quê hương tôi bớt khổ, người lãnh đạo thì biết thương dân thương nước. Kẻ nghèo hèn có cơm ăn no, có áo mặc ấm, có nhà để ở, các người trẻ được đến trường, người già và kẻ neo đơn được săn sóc thuốc men khi ốm đau. Khi bệnh hoạn ốm đau phải vào bệnh viện có chỗ nằm và được săn sóc tươm tất, không bị hất hủi do nghèo khó, hay không có thân nhân hoặc thân nhân không có tiền.

Biết cảm nhận và nhìn về quá khứ thủa xa xưa ấy, khi tìm đường ra đi vượt biên vượt biển, trốn thoát, mà ngày nay nhờ lòng tốt của chế độ tư bản, cuộc sống của người tỵ nạn Việt Nam đã được ổn định, nhà cửa ấm áp và tươm tất, có xe, có nhà, có đủ thứ như những người bản xứ, có khi còn hơn họ. Con, em họ lại được học tập đến nơi đến chốn, trong môi trường đào tạo thật lý tưởng nhờ vào chính sách hoàn toàn tự do và nhân bản, trọng chuyên hơn hồng, cho nên người trẻ có những địa vị vững vàng trong xã hội.


Ấy là nhờ Người, nhờ những lương tâm tốt của những nhà chính trị, những người thiện tâm thiện chí, khi nhìn thấy trên màn ảnh, những hình ảnh đau thương và chết chóc giữa biển khơi, với chiếc ghe mong manh bé nhỏ phải đối diện với sóng gió và bao nghịch cảnh. Họ đã phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn và những người thân thương để ra đi tìm tự do tránh họa cộng sản. Nhờ những tiếng kêu cứu đó, những can thiệp đó nên mới có những tổ chức như hội cứu giúp thuyền nhân không biên giới Cap Anamuur của Đức mà ông Neus deck là người khởi xướng. Những tổ chức thiện nguyện của nhiều quốc gia trên thế giới cùng nhau đứng ra vận động thế giới tư bản. Đánh động lương tâm những nhà lãnh đạo các quốc gia châu Á không hất hủi, kéo, đuổi tàu vượt biên Việt Nam. Giảm bớt sự cướp bóc của những dân làm nghề biển không lương thiện. Mở rộng các trung tâm để đón tiếp người Tỵ Nạn Việt Nam vượt Biên.

Sau ngày chương trình tỵ nạn đã chấm dứt, còn có những cá nhân tổ chức vận động các quốc gia chấp nhận người Việt Nam còn lại, không có nước nào nhận, từ các trại ở Phi Luật Tân, ở Thái được vào định cư tại quốc gia của họ như gần đây ở Thụy Điển, Canada. Những tổ chức hay cá nhân này, họ là những người trẻ, có khả năng và năng nổ nhưng một lòng dấn thân như Trịnh Hội và tổ chức của anh, đã vận động các nước tiếp nhận thêm số người tỵ nạn còn ở các trại như ở Phi Luận Tân, ở Thái Lan.

Nhờ đâu? Nhờ Trời, nhờ Người, nhờ các nước tư bản không cộng sản. Có của ăn của để, có đới sống đã ổn định giúp đỡ thủa đầu, mà ngày nay, chúng ta mới được ổn định. Nên lợi dụng những ngày đầu năm mới chúng ta cảm tạ ơn Trời, cám ơn Người và xã hội cho chúng ta tới định cư.

Thật vậy, ai đã được cứu vớt trên biển khác nào sinh lại lần thứ hai trên cõi đời này. Vì nơi biển cả bao la và nhiều nghịch cảnh, mà con thuyền vượt biên thì mong manh nhỏ bé, sự sống của người ra đi vượt biển như sợi chỉ mong manh trước gió ngàn và sóng lớn. Chưa kể, khi đã được cứu vớt đem về trại tỵ nạn, rồi đem về nước cho định cư, thật vô vàn công khó của những nước, những người đầy lòng từ tâm, thì người tỵ nạn mới được như hôm nay.

Sau nhiều thập niên, thế hệ thứ nhất qua đi, thế hệ thứ hai trỗi dậy, không khác người bản địa về ngôn ngữ, về học vấn và về địa vị ở xã hội. Cho nên chúng ta mới nghe, mới thấy, những thế hệ thứ hai này có mặt ở các lãnh vực như: ra tranh cử, nắm giữ nhiều chức vụ ngoài xã hội, ở trong quân đội, có người đã lên hàng tướng lãnh. Nói chung họ dấn thân vào các ngành nghề như người bản xứ. Nhân những ngày đầu năm này, mọi người tỵ nạn chúng ta thầm nguyện cầu tạ ơn Trời, tạ ơn Người và cám ơn các nước đã cho chúng ta định cư, để có được ngày hôm nay. Hơn rất nhiều lần người còn đang ở trong nước (không phải là đảng viên của đảng CS). Và nhìn về các nơi các nước chậm tiến khác trên thế giới thì chúng ta hơn thật xa họ.

Nhân đón mừng năm mới Ất Mùi. Chúng ta cùng nhau tạ ơn Trời. Cùng khấn nguyện cho bao người đã làm ơn làm phúc cho chúng ta cách này hay cách khác: Những vị thuyền trưởng và thủy thủ đoàn trên những con tàu viễn liên di chuyển trên hải phận quốc tế, phát hiện ra những con tàu vượt biên của chúng ta mà sẵn lòng cứu vớt. Những người làm truyền thông. Những người làm chính trị khi tiếp nhận những hình ảnh đầy nguy hiểm và thương tâm trên các màn ảnh truyền hình. Những cá nhân tổ chức. Những người thiện nguyện. Nếu không có họ thì chúng ta đã bỏ xác ở biển đông, hay bị trả về với Cộng Sản Việt Nam mà vì chúng, chúng ta mới phải bỏ trốn ra đi. Và hơn thế nữa chúng ta phải đấm ngực ăn năn vì đã hơn một lần về thăm lại quê hương xưa. Nơi Cộng Sản Việt Nam vẫn còn cai trị dân tộc Việt bằng bạo lực, không khác gì sau 30-04-1975 lúc ta trốn đi vượt biên, vượt biển./-

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.