Hôm nay,  

Phật Giáo VN đang ở đâu trong dòng chảy Dân Tộc?

13/08/201300:00:00(Xem: 9985)
…Khi còn ở cấp tiểu học, rồi trung học, một trong những môn học thích thú nhất là môn Sử. Ở tuổi thiếu niên này thật sự chưa hiểu được chính xác Sử là cái gì nhưng vẫn thích Sử. Có lẽ vì hình ảnh “cậu bé” Trần Quốc Toản không được dự Hội Nghị Bình Than bàn cách chống quân Nguyên nên tức giận bóp nát trái cam, rồi may cờ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân”. Say mê tài Yết Kiêu ngụp lặn dưới nước đục thuyền giặc. Cảm phục Hai Bà Trưng mặc giáp vàng, cỡi voi đánh tan quân Hán. Rất khoái câu nói của Bà Triệu “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”. Rồi, không biết bao nhiêu Anh Hùng Dân Tộc trong suốt triều dài lịch sử bốn ngàn năm chống ngoại xâm…nhiều…nhiều lắm.

Sau này, trưởng thành, đến lúc tóc đã có sợi bạc, đọc lại những sách sử vẫn say mê như máu nóng thời trẻ và chợt hiểu thêm rằng đạo Phật dường như đã gắn liền với sự thịnh suy của Dân Tộc. Các triều đại Lý-Trần thể hiện nổi bật nhất về sự ảnh hưởng tích cực của Phật giáo vào vận mệnh của nước nhà. Từ vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông cho đến Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đều chống giặc, giữ nước trên nền tảng của triết học Phật giáo.

Không những thế, những vị Thiền sư như Sư Vạn Hạnh phò vua Lê Đại Hành và là người thầy của Lý Công Uẩn (sau trở thành Vua Lý Thái Tổ), cùng với vua quan chăm lo việc nước. Tuệ Trung Thượng Sĩ cùng với Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh đuổi quân Nguyên Mông. Như Thiền sư Đỗ Thuận đóng vai người chèo đò đưa khách sang sông để đối đáp với sứ giả của Trung Hoa, lo toan việc đại sự cho quốc gia. Gần hơn nữa, một Thích Tuệ Sỹ với nỗi lòng đau đáo về tiền đồ Dân Tộc….

Có thể nói, đạo Phật đã quyện vào dòng chảy của Dân Tộc như một thực thể không rời. Có người còn cho rằng:

“Sự tồn vong của Dân Tộc chính là sự tồn vong của đạo Phật, hoặc ngược lại, sự tồn vong của đạo Phật là sự tồn vong của Dân Tộc”.

Không biết nhận định này có đúng không, nhưng… đó là chuyện của ngày hôm qua.

Ngày nay thì sao?

Về bề mặt phát triển Phật giáo thì có thể nói không ngoa là choáng ngợp. Rất nhiều sử sách cho rằng thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Việt Nam là trong suốt triều đại Lý-Trần. Nhưng, nhìn trên bề mặt thì những dấu ấn di tích từ triều đại Lý-Trần không là gì với những công trình Phật giáo ngày hôm nay.

Ngày nay, Việt Nam có Tượng Phật Di Lặc lớn nhất châu Á trên núi Cấm thuộc tỉnh An Giang. Tượng Phật nhập Niết bàn ở Tà Cú, Bình Thuận đã lập kỷ lục Châu Á là tượng phật lớn và dài nhất trên đỉnh núi. Tượng Phật ngọc bằng đá saphire lớn nhất Việt Nam tại Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên, Vĩnh Phúc. Rồi chùa Bái Đính lớn nhất Việt Nam, có khả năng là vĩ đại và lớn nhất Đông Nam Á vào năm 2015. Dự án sắp tới sẽ xây một loạt chùa với hoa văn dát vàng ròng trải dài trên ba miền Bắc-Trung-Nam,…

Đọc lại những áng thơ, văn về lễ hội chùa thời xa xưa như lễ hội chùa Hương, chùa Keo, chùa Trăm Gian,… mới cảm thấy rằng lễ hội ngày xưa rất dân gian, rất gần gũi, đơn sơ và rất Phật.

Ngày nay, không chỉ vào dịp lễ hội mà bất kỳ một sự kiện nào, một ngày nghĩ nào, một cơ hội nào thì người-người đi lễ chùa. Cảnh tượng chen lấn khấn vái, đốt hương (ngày xưa ta gọi là thắp hương), khói dầy đặt cả không gian chùa đến nỗi người vừa cắm hương vào lư người khác lấy đi dập tắt, cứ thế mà luân chuyển suốt ngày đêm.

Quan sát để biết những ai là người đến chùa khấn vái, cầu xin.

Có lẽ dễ nhận biết là người đến cầu tài, cầu lộc. Từ một người bán hàng xén cho đến doanh nhân tiền triệu (đô-la Mỹ) đều khấn cầu được “ăn nên làm ra”, kiếm thật nhiều tiền và nhiều tiền hơn nữa. Thành phần này chiếm tỉ lệ nhiều nhất.

Kế đến là các cấp lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên nhà nước. Cương vị hay chức vụ là vấn đề quan trọng nhất. Khấn cầu được thăng quan, tiến chức và được an toàn sau khi hết nhiệm kỳ.

Người đến cầu phước cũng tương đối phổ biến.

Một điều khó hiểu là người đến khấn cầu sự giải thoát, bình an, tự tại thì rất ít.

Lật lại những trang sử cũ thì không thấy hoặc chưa tìm ra có giai đoạn nào mà người sĩ tử đi chùa cầu Phật trước khi vào trường thi. Ngày nay, trước mùa thi, học sinh, sinh viên và bậc cha mẹ viếng chùa rất đông để van vái, cầu xin cho mình hoặc con cháu được thi đỗ. Thậm chí có những chùa tổ chức cả một buổi thuyết giảng về đạo pháp trong thi cử.

Có thể khẳng định rằng, chưa có thời kỳ nào trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam mà người đi chùa cúng vái, thờ phượng ồ ạt như ngày nay. Cũng khẳng định là chưa có thời kỳ nào mà nhà chùa được xây dựng rộng khắp, to lớn và bề thế như thời kỳ này.

Không chỉ phát triển trong nước, Phật Giáo Việt Nam đang lan tỏa và hình thành mạnh mẽ tại các nước có cộng đồng người Việt sinh sống như Hoa-kỳ, Canada, Úc, Pháp. Những năm gần đây có khuynh hướng các vị tăng, ni di dân ra nước ngoài truyền bá đạo pháp; hình thức tuy đơn lẻ nhưng bên trong hàm chứa cả một hệ thống trong một bức tranh tổng thể. Hiện tượng này có vẻ tương tự như trong thời kỳ cuối thế kỷ 18 khi Giám mục Bá Đa Lộc (Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine) cũng như những giáo sĩ người Pháp đặt chân đến Việt Nam với sứ mạng truyền giáo.


Phải chăng Phật Giáo Việt Nam đã phát triển đến thời kỳ cực thịnh?

Nếu dựa trên số lượng phật tử, số đông tìm đến cửa chùa để thờ phượng, cúng bái, nghe kinh và qui mô xây dựng nhà chùa thì đúng là Phật Giáo Việt Nam đang vào thời kỳ cực thịnh.

Người tìm đến cửa chùa hầu hết để cầu tài, lộc, phước, danh vọng, đỗ đạt, giải thoát, an lạc, tu tập hay bất kỳ một mong muốn nào đó đều không có gì là sai vì khi con người không dám chắc có thể tự mình đạt được sự mong muốn thì tìm đến một đấng toàn năng để có thêm niềm tin, sức mạnh và nghị lực. Điều này có thể hiểu được trong thời Quốc thái Dân an.

Đất Nước và Dân Tộc không đang trong thời kỳ an bình như vậy.

Rất nhiều người cho rằng đất nước đang đứng trước “nguy cơ” hay “hiểm họa” bị Bắc thuộc lần thứ 5. Không đúng – Đất nước đã bắt đầu bị Bắc thuộc lần thứ 5 thì mới chính xác.

Ải Nam Quan đã mất. Một số điểm cao dọc trên biên giới Việt Bắc đã bị chiếm. Trung Quốc đã đưa người vào Tây Nguyên, nơi các tướng lãnh Pháp từng nói: “Ai chiếm được Tây Nguyên là sẽ khống chế toàn Đông-Nam Á”. Vịnh Bắc Bộ đang bị lấn áp, Hoàng Sa đã mất, một số đảo Trường Sa nằm trong tay Trung Quốc, tàu thuyền Trung Quốc đang tràn ngập biển Đông. Kinh tế bị khuynh loát bởi tư bản đỏ Trung Quốc, hầu hết nhà máy nhiệt điện do nhà thầu Trung Quốc cung cấp và khống chế. Văn hóa Trung Quốc tràn ngập từ sách nhi đồng cho đến phim truyện truyền hình. Các cụm làng Trung Quốc đang mọc lên tại khắp mọi miền đất nước, trai tráng thợ thuyền Trung Quốc lùng xục lấy vợ Việt Nam.

Trung Quốc đang gậm nhắm Việt Nam.

Không dừng ở đây. Khi Trung Quốc chiếm trọn biển Đông đó là thời điểm khởi đầu Việt Nam hoàn toàn bị Bắc thuộc, hoàn thành giấc mơ đại Hán và đồng hóa tộc Việt, bộ tộc duy nhất còn sót lại trong nhóm Bách Việt.

Dân tộc Việt bị diệt vong.

Lại dở những trang sử cũ. Thường thấy Phật Giáo Việt Nam đồng hành với dân tộc vào những giai đoạn thăng trầm của đất nước.

Những năm gần đây, hay dễ nhớ hơn, là từ những ngày Tết năm 2013 khi hầu hết các chùa, trong và ngoài nước, đông kín phật tử tới dự lễ, viếng Phật cho đến Đại lễ Phật Đản trong không khí hân hoan và hàng triệu-triệu con người chảy hội đón mừng với bao nhiêu sự kiện rước kiệu, diễn hành xe hoa, chèo thuyền hoa trên sông, lễ thả hoa đăng, hành hương, khai kinh, giảng đạo.

Trong hàng triệu-triệu con người đó, hàng ngàn Vị chức sắc, hàng vô số lời kinh câu kệ, bài thuyết giảng, lời cầu nguyện, tuyệt nhiên không hề có một ai gióng lên tiếng chuông thức tỉnh “Đất nước đang bị giặc ngoại xâm”, không có một lời chỉ rỏ “Trung Quốc đang Hán hóa dân tộc Việt”.

Tại sao như vậy?

Câu trả lời duy nhất: đó không phải là việc của nhà Phật, người tu hành không làm chính trị.

Vậy, xin hỏi tiếp. Có phải Sư Vạn Hạnh, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Thiền sư Đỗ Thuận đã sai khi tham gia vào việc cứu nước mà ngày nay được gọi là “chính trị”? Các vị Vua triều đại Lý-Trần đưa triết lý nhà Phật vào việc giữ nước, dựng nước là không đúng đắn?

Thử hỏi, liệu có thể tìm được sự hạnh phúc, thư giản, yên vui, an nhiên, tự tại, thân tâm an lạc khi nước mất nhà tan, dân tộc lầm than dẫn đến họa diệt vong?

Có thể quan điểm cho rằng “Sự tồn vong của Dân Tộc chính là sự tồn vong của đạo Phật, hoặc ngược lại, sự tồn vong của đạo Phật là sự tồn vong của Dân Tộc” chưa hẳn đúng, nhưng có lẽ khó có ai phủ nhận được Phật Giáo Việt Nam đã hòa quyện vào dân tộc trong suốt hàng nghìn năm lịch sử.

Nếu Dân tộc bị diệt vong thì Phật Giáo Việt Nam sẽ về đâu?

Triết lý nhà Phật không luận đến sự manh động. Nhưng có phải vì thế mà Phật Giáo Việt Nam không hề manh động khi cần đòi hỏi những yêu cầu chính đáng?

Có phải trong những năm đầu thập kỷ 1960 Phật Giáo Việt Nam đã hô hào chống lại chính sách phân biệt tôn giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm? Cao trào của sự phản kháng này vào tháng 6 năm 1963 khi tăng đoàn Phật Giáo rầm rộ xuống đường biểu tình tại Sài-gòn và đỉnh điểm là giây phút tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức. Lực lượng cảnh sát được điều tới, nhưng không phải để đàn áp mà giữ trật tự an ninh cho cuộc biểu tình và hành động tự thiêu. Năm tháng sau, chính phủ Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa miền Nam Việt Nam bị sụp đổ.

Hãy bỏ ra ngoài nghi vấn sự kiện trên có, hay không có tiềm ẩn yếu tố tính chính trị. Điều này để lịch sử phán xét. Nhưng, chắc chắn sự kiện này là một minh chứng:

Để có thể bảo vệ quyền tự do và sự bình đẳng hành đạo thì người Phật tử và Phật Giáo Việt Nam sẵn sàng tranh đấu kể cả hy sinh mạng sống của mình cho đạo pháp, và kể cả phải lật đổ chính phủ.

Tây Tạng là một tấm gương bi tráng sống động. Kể từ năm 1999 đã có 118 vụ tự thiêu tại Tây Tạng – xin nhấn mạnh một lần nữa là 118 vụ tự thiêu - hầu hết là những vị Sư, Ni Tây Tạng. Mặc dù vậy, nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn không dừng đàn áp với quyết tâm Hán hóa dân tộc Tây Tạng. Từ khi chiếm được đất nước Tây Tạng thì có ngày nào Phật Giáo Tây Tạng được yên vui, an bình để hành đạo?

Chính sách bành trướng, bá quyền đại Hán của Trung Quốc đã quá rõ.

Đất nước Việt đã bắt đầu bị xâm lấn. Dân tộc Việt đang dần bị Hán hóa. Họa diệt vong ngày càng gần.

Ngay giờ phút này, Phật Giáo Việt Nam đang ở đâu trong dòng chảy của Dân Tộc?

Nguyễn Quốc Nam
07/2013

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Khi còn tại chức, không ít lần, T.T Nguyễn Xuân Phúc đã khiến cho dân tình hoang mang hay bối rối khi nghe những câu chữ rất lạ kỳ: “Quảng Ninh là đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Vĩnh Phúc sẽ vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Long An phải trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Hải Phòng là đầu tàu quan trọng của cả nước’, ‘Bình Dương phải là đầu tàu phát triển kinh tế mạnh nhất của cả nước …”
Nhưng 64 năm sau (1960-2024), đảng đã thoái hóa, biến chất. Đảng viên thì tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống tự diễn biến và tự chuyển hóa, bài bác Chủ nghĩa Mác-Lênin và cả “tư tưởng Hồ Chí Minh” nữa...
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.