Hôm nay,  

Phật Giáo VN đang ở đâu trong dòng chảy Dân Tộc?

8/13/201300:00:00(View: 9987)
…Khi còn ở cấp tiểu học, rồi trung học, một trong những môn học thích thú nhất là môn Sử. Ở tuổi thiếu niên này thật sự chưa hiểu được chính xác Sử là cái gì nhưng vẫn thích Sử. Có lẽ vì hình ảnh “cậu bé” Trần Quốc Toản không được dự Hội Nghị Bình Than bàn cách chống quân Nguyên nên tức giận bóp nát trái cam, rồi may cờ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân”. Say mê tài Yết Kiêu ngụp lặn dưới nước đục thuyền giặc. Cảm phục Hai Bà Trưng mặc giáp vàng, cỡi voi đánh tan quân Hán. Rất khoái câu nói của Bà Triệu “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”. Rồi, không biết bao nhiêu Anh Hùng Dân Tộc trong suốt triều dài lịch sử bốn ngàn năm chống ngoại xâm…nhiều…nhiều lắm.

Sau này, trưởng thành, đến lúc tóc đã có sợi bạc, đọc lại những sách sử vẫn say mê như máu nóng thời trẻ và chợt hiểu thêm rằng đạo Phật dường như đã gắn liền với sự thịnh suy của Dân Tộc. Các triều đại Lý-Trần thể hiện nổi bật nhất về sự ảnh hưởng tích cực của Phật giáo vào vận mệnh của nước nhà. Từ vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông cho đến Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đều chống giặc, giữ nước trên nền tảng của triết học Phật giáo.

Không những thế, những vị Thiền sư như Sư Vạn Hạnh phò vua Lê Đại Hành và là người thầy của Lý Công Uẩn (sau trở thành Vua Lý Thái Tổ), cùng với vua quan chăm lo việc nước. Tuệ Trung Thượng Sĩ cùng với Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh đuổi quân Nguyên Mông. Như Thiền sư Đỗ Thuận đóng vai người chèo đò đưa khách sang sông để đối đáp với sứ giả của Trung Hoa, lo toan việc đại sự cho quốc gia. Gần hơn nữa, một Thích Tuệ Sỹ với nỗi lòng đau đáo về tiền đồ Dân Tộc….

Có thể nói, đạo Phật đã quyện vào dòng chảy của Dân Tộc như một thực thể không rời. Có người còn cho rằng:

“Sự tồn vong của Dân Tộc chính là sự tồn vong của đạo Phật, hoặc ngược lại, sự tồn vong của đạo Phật là sự tồn vong của Dân Tộc”.

Không biết nhận định này có đúng không, nhưng… đó là chuyện của ngày hôm qua.

Ngày nay thì sao?

Về bề mặt phát triển Phật giáo thì có thể nói không ngoa là choáng ngợp. Rất nhiều sử sách cho rằng thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Việt Nam là trong suốt triều đại Lý-Trần. Nhưng, nhìn trên bề mặt thì những dấu ấn di tích từ triều đại Lý-Trần không là gì với những công trình Phật giáo ngày hôm nay.

Ngày nay, Việt Nam có Tượng Phật Di Lặc lớn nhất châu Á trên núi Cấm thuộc tỉnh An Giang. Tượng Phật nhập Niết bàn ở Tà Cú, Bình Thuận đã lập kỷ lục Châu Á là tượng phật lớn và dài nhất trên đỉnh núi. Tượng Phật ngọc bằng đá saphire lớn nhất Việt Nam tại Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên, Vĩnh Phúc. Rồi chùa Bái Đính lớn nhất Việt Nam, có khả năng là vĩ đại và lớn nhất Đông Nam Á vào năm 2015. Dự án sắp tới sẽ xây một loạt chùa với hoa văn dát vàng ròng trải dài trên ba miền Bắc-Trung-Nam,…

Đọc lại những áng thơ, văn về lễ hội chùa thời xa xưa như lễ hội chùa Hương, chùa Keo, chùa Trăm Gian,… mới cảm thấy rằng lễ hội ngày xưa rất dân gian, rất gần gũi, đơn sơ và rất Phật.

Ngày nay, không chỉ vào dịp lễ hội mà bất kỳ một sự kiện nào, một ngày nghĩ nào, một cơ hội nào thì người-người đi lễ chùa. Cảnh tượng chen lấn khấn vái, đốt hương (ngày xưa ta gọi là thắp hương), khói dầy đặt cả không gian chùa đến nỗi người vừa cắm hương vào lư người khác lấy đi dập tắt, cứ thế mà luân chuyển suốt ngày đêm.

Quan sát để biết những ai là người đến chùa khấn vái, cầu xin.

Có lẽ dễ nhận biết là người đến cầu tài, cầu lộc. Từ một người bán hàng xén cho đến doanh nhân tiền triệu (đô-la Mỹ) đều khấn cầu được “ăn nên làm ra”, kiếm thật nhiều tiền và nhiều tiền hơn nữa. Thành phần này chiếm tỉ lệ nhiều nhất.

Kế đến là các cấp lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên nhà nước. Cương vị hay chức vụ là vấn đề quan trọng nhất. Khấn cầu được thăng quan, tiến chức và được an toàn sau khi hết nhiệm kỳ.

Người đến cầu phước cũng tương đối phổ biến.

Một điều khó hiểu là người đến khấn cầu sự giải thoát, bình an, tự tại thì rất ít.

Lật lại những trang sử cũ thì không thấy hoặc chưa tìm ra có giai đoạn nào mà người sĩ tử đi chùa cầu Phật trước khi vào trường thi. Ngày nay, trước mùa thi, học sinh, sinh viên và bậc cha mẹ viếng chùa rất đông để van vái, cầu xin cho mình hoặc con cháu được thi đỗ. Thậm chí có những chùa tổ chức cả một buổi thuyết giảng về đạo pháp trong thi cử.

Có thể khẳng định rằng, chưa có thời kỳ nào trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam mà người đi chùa cúng vái, thờ phượng ồ ạt như ngày nay. Cũng khẳng định là chưa có thời kỳ nào mà nhà chùa được xây dựng rộng khắp, to lớn và bề thế như thời kỳ này.

Không chỉ phát triển trong nước, Phật Giáo Việt Nam đang lan tỏa và hình thành mạnh mẽ tại các nước có cộng đồng người Việt sinh sống như Hoa-kỳ, Canada, Úc, Pháp. Những năm gần đây có khuynh hướng các vị tăng, ni di dân ra nước ngoài truyền bá đạo pháp; hình thức tuy đơn lẻ nhưng bên trong hàm chứa cả một hệ thống trong một bức tranh tổng thể. Hiện tượng này có vẻ tương tự như trong thời kỳ cuối thế kỷ 18 khi Giám mục Bá Đa Lộc (Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine) cũng như những giáo sĩ người Pháp đặt chân đến Việt Nam với sứ mạng truyền giáo.


Phải chăng Phật Giáo Việt Nam đã phát triển đến thời kỳ cực thịnh?

Nếu dựa trên số lượng phật tử, số đông tìm đến cửa chùa để thờ phượng, cúng bái, nghe kinh và qui mô xây dựng nhà chùa thì đúng là Phật Giáo Việt Nam đang vào thời kỳ cực thịnh.

Người tìm đến cửa chùa hầu hết để cầu tài, lộc, phước, danh vọng, đỗ đạt, giải thoát, an lạc, tu tập hay bất kỳ một mong muốn nào đó đều không có gì là sai vì khi con người không dám chắc có thể tự mình đạt được sự mong muốn thì tìm đến một đấng toàn năng để có thêm niềm tin, sức mạnh và nghị lực. Điều này có thể hiểu được trong thời Quốc thái Dân an.

Đất Nước và Dân Tộc không đang trong thời kỳ an bình như vậy.

Rất nhiều người cho rằng đất nước đang đứng trước “nguy cơ” hay “hiểm họa” bị Bắc thuộc lần thứ 5. Không đúng – Đất nước đã bắt đầu bị Bắc thuộc lần thứ 5 thì mới chính xác.

Ải Nam Quan đã mất. Một số điểm cao dọc trên biên giới Việt Bắc đã bị chiếm. Trung Quốc đã đưa người vào Tây Nguyên, nơi các tướng lãnh Pháp từng nói: “Ai chiếm được Tây Nguyên là sẽ khống chế toàn Đông-Nam Á”. Vịnh Bắc Bộ đang bị lấn áp, Hoàng Sa đã mất, một số đảo Trường Sa nằm trong tay Trung Quốc, tàu thuyền Trung Quốc đang tràn ngập biển Đông. Kinh tế bị khuynh loát bởi tư bản đỏ Trung Quốc, hầu hết nhà máy nhiệt điện do nhà thầu Trung Quốc cung cấp và khống chế. Văn hóa Trung Quốc tràn ngập từ sách nhi đồng cho đến phim truyện truyền hình. Các cụm làng Trung Quốc đang mọc lên tại khắp mọi miền đất nước, trai tráng thợ thuyền Trung Quốc lùng xục lấy vợ Việt Nam.

Trung Quốc đang gậm nhắm Việt Nam.

Không dừng ở đây. Khi Trung Quốc chiếm trọn biển Đông đó là thời điểm khởi đầu Việt Nam hoàn toàn bị Bắc thuộc, hoàn thành giấc mơ đại Hán và đồng hóa tộc Việt, bộ tộc duy nhất còn sót lại trong nhóm Bách Việt.

Dân tộc Việt bị diệt vong.

Lại dở những trang sử cũ. Thường thấy Phật Giáo Việt Nam đồng hành với dân tộc vào những giai đoạn thăng trầm của đất nước.

Những năm gần đây, hay dễ nhớ hơn, là từ những ngày Tết năm 2013 khi hầu hết các chùa, trong và ngoài nước, đông kín phật tử tới dự lễ, viếng Phật cho đến Đại lễ Phật Đản trong không khí hân hoan và hàng triệu-triệu con người chảy hội đón mừng với bao nhiêu sự kiện rước kiệu, diễn hành xe hoa, chèo thuyền hoa trên sông, lễ thả hoa đăng, hành hương, khai kinh, giảng đạo.

Trong hàng triệu-triệu con người đó, hàng ngàn Vị chức sắc, hàng vô số lời kinh câu kệ, bài thuyết giảng, lời cầu nguyện, tuyệt nhiên không hề có một ai gióng lên tiếng chuông thức tỉnh “Đất nước đang bị giặc ngoại xâm”, không có một lời chỉ rỏ “Trung Quốc đang Hán hóa dân tộc Việt”.

Tại sao như vậy?

Câu trả lời duy nhất: đó không phải là việc của nhà Phật, người tu hành không làm chính trị.

Vậy, xin hỏi tiếp. Có phải Sư Vạn Hạnh, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Thiền sư Đỗ Thuận đã sai khi tham gia vào việc cứu nước mà ngày nay được gọi là “chính trị”? Các vị Vua triều đại Lý-Trần đưa triết lý nhà Phật vào việc giữ nước, dựng nước là không đúng đắn?

Thử hỏi, liệu có thể tìm được sự hạnh phúc, thư giản, yên vui, an nhiên, tự tại, thân tâm an lạc khi nước mất nhà tan, dân tộc lầm than dẫn đến họa diệt vong?

Có thể quan điểm cho rằng “Sự tồn vong của Dân Tộc chính là sự tồn vong của đạo Phật, hoặc ngược lại, sự tồn vong của đạo Phật là sự tồn vong của Dân Tộc” chưa hẳn đúng, nhưng có lẽ khó có ai phủ nhận được Phật Giáo Việt Nam đã hòa quyện vào dân tộc trong suốt hàng nghìn năm lịch sử.

Nếu Dân tộc bị diệt vong thì Phật Giáo Việt Nam sẽ về đâu?

Triết lý nhà Phật không luận đến sự manh động. Nhưng có phải vì thế mà Phật Giáo Việt Nam không hề manh động khi cần đòi hỏi những yêu cầu chính đáng?

Có phải trong những năm đầu thập kỷ 1960 Phật Giáo Việt Nam đã hô hào chống lại chính sách phân biệt tôn giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm? Cao trào của sự phản kháng này vào tháng 6 năm 1963 khi tăng đoàn Phật Giáo rầm rộ xuống đường biểu tình tại Sài-gòn và đỉnh điểm là giây phút tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức. Lực lượng cảnh sát được điều tới, nhưng không phải để đàn áp mà giữ trật tự an ninh cho cuộc biểu tình và hành động tự thiêu. Năm tháng sau, chính phủ Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa miền Nam Việt Nam bị sụp đổ.

Hãy bỏ ra ngoài nghi vấn sự kiện trên có, hay không có tiềm ẩn yếu tố tính chính trị. Điều này để lịch sử phán xét. Nhưng, chắc chắn sự kiện này là một minh chứng:

Để có thể bảo vệ quyền tự do và sự bình đẳng hành đạo thì người Phật tử và Phật Giáo Việt Nam sẵn sàng tranh đấu kể cả hy sinh mạng sống của mình cho đạo pháp, và kể cả phải lật đổ chính phủ.

Tây Tạng là một tấm gương bi tráng sống động. Kể từ năm 1999 đã có 118 vụ tự thiêu tại Tây Tạng – xin nhấn mạnh một lần nữa là 118 vụ tự thiêu - hầu hết là những vị Sư, Ni Tây Tạng. Mặc dù vậy, nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn không dừng đàn áp với quyết tâm Hán hóa dân tộc Tây Tạng. Từ khi chiếm được đất nước Tây Tạng thì có ngày nào Phật Giáo Tây Tạng được yên vui, an bình để hành đạo?

Chính sách bành trướng, bá quyền đại Hán của Trung Quốc đã quá rõ.

Đất nước Việt đã bắt đầu bị xâm lấn. Dân tộc Việt đang dần bị Hán hóa. Họa diệt vong ngày càng gần.

Ngay giờ phút này, Phật Giáo Việt Nam đang ở đâu trong dòng chảy của Dân Tộc?

Nguyễn Quốc Nam
07/2013

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.