Hôm nay,  

Xin Đừng Phán Xét Người Khác

3/26/201300:00:00(View: 6830)
Là người, chúng ta thường có khuynh hướng hay khen, chê và phán xét trong cuộc sống. Đây là chuyện rất bình thường và rất tự nhiên của con người ở bất cứ thời đại nào.

Các bộ mặt của phán xét

Phán xét có thể bằng lời nói,bằng lời viết, bằng cử chỉ, bằng thái độ khinh khi, lờ đi, hoặc đôi khi chỉ cần nghĩ thầm trong bụng mà thôi.

Phán xét có thể đúng, sai, thiên vị, chủ quan hoặc khách quan.

Dường như phán xét tiêu cực,vì ganh tị, để đả phá, để trả thù, để cho đở tức, để ngạo mạn, để cho bỏ ghét thường dễ xảy ra hơn là phán xét xây dựng để giúp người khác sửa sai, tránh lỗi lầm , để nâng tinh thần, hoặc để khen thưởng một người nào đó.

Nên nhớ là sự tức giận là vũ khí của kẻ hèn nhát (la colère est larme des faibles).

Phán xét thường chịu ảnh hưởng của tình cảm cá nhân, thương hay ghét,tùy theo cách nhìn một vấn đề, tùy theo sự hiểu biết hay tri thức, tùy khung cảnh xã hội, tùy quyền lợi cá nhân, quan điểm chánh trị hay tín ngưỡng của một người. Phán xét có thể thay đổi theo thời gian và không gian.

Đó là chưa kể trong xã hội cũng có một hạng người lúc nào cũng hay bác bỏ, chê bai bất cứ lời nói, ý kiến hay việc làm gì của người khác. Theo họ thì tất cả đều sai hết duy chỉ có họ mới đúng mà thôi. Phải chăng họ đang mắc chứng xáo trộn nhân cách ái kỷ(narcissisme).

Phán xét có chủ đích

Ngoài ra còn vấn đề khen chê giả dối vì xả giao, để lấy lòng, để kiếm điểm, để nâng bi, thượng đội hạ đạp... Trước mặt thì khen nhưng sau lưng thì bỉu môi, nhăn mặt, chê bai tới tấp...thật đúng là hạng đạo đức giả và hạng chánh trị gia trở cờ, xoay theo chiều gió.

Trong bài nầy người gõ xin đúc kết lại vấn đề phán xét theo cái nhìn của khoa tâm lý học (psychologie) và khoa phân tâm học (psychanalyse) đăng trong tạp chí: Psychologie Magazine no 27 Nov 2008

Khi phán xét người khác là mình tự phán xét chính mình (Juger lautre, cest porter un jugement sur soi. Norbert Chatillon, Psychanalyste)

Khi chúng ta phán xét bất cứ việc gì của người khác chúng ta sẽ tự mình làm tiêu mòn năng lực một cách vô ích thay vì có thể giữ chúng lại để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của mình được thêm phần tươi đẹp và phong phú hơn.

Vậy tại sao chúng ta có tật hay phán xét kẻ khác? Theo nhà phân tâm học N. Chatillon thì chính sự tương đồng hoặc sự khác biệt với người khác làm mình bối rối khó chịu và mình không thể xác định được căn tánh (identité) của chính mình. Vậy cách tự vệ tốt nhất là mình phải tấn công người ta qua việc phán xét họ thẳng thừng không thương tiếc.

Trước khi phán xét người khác thì nên tự hỏi mình có trong sạch hơn người kia không?

(Người nào tự cho rằng mình là trong sạch, hãy ném cục đá đầu tiên vào người đàn bà)

"Let the person among you who is without sin be the first to throw a stone at her." John 8:7

Trong Kinh Thánh St Luc có viết: “Tại sao các ông để ý tới hạt bụi trong mắt người ta nhưng lại bỏ qua khúc gỗ nơi mắt của mình?”

Chỉ trích ít nhưng phải chỉ trích cho đúng.

Từ việc chỉ trích để xây dựng dến việc kết tội thì cũng không mấy xa nhau, chỉ cần có thêm đôi ba chữ mà thôi.

Phán xét được xem là có ích khi nó giúp mình cải thiện và xây dựng căn tánh của mình. Trong trường hợp nầy sự phán xét sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn chính chắn về xã hội quanh ta.

Phán xét trở nên độc hại khi nó rơi vào cực đoan, khinh mạn, để hạ và để chà đạp người khác (dénigrer), để che lấp bớt cái dở, cái yếu kém của mình hầu có được cảm giác thượng tôn hơn người.

Loại phán xét đả phá rất có hại vì nó có thể dẫn dắt chúng ta rơi vào sự chối từ người khác.

Phán xét rất chủ quan và chịu ảnh hưởng của định kiến

Tuy vậy, phán xét cũng rất cần thiết. Nó giúp chúng ta có “ ý kiến” nhưng đôi khi nó có thể trở thành một lối khinh miệt đưa đến sự kết tội người khác.

Mặc dù thành kiến là cội nguồn của sai lầm và bất công, nhưng triết gia Đức Immanuel Kant (1724- 1804) cũng đã nhắc nhở chúng ta cần phải có bổn phận phán xét. Đó là trường hợp phải phán xét kẻ sát nhân và những kẻ phạm tội tình dục, hiếp dâm v.v...Đây là những trọng tội trong xã hội.

Theo các nhà phân tâm học thì chúng ta thường có khuynh hướng hay phán xét những hành động vô luân (immorale) nếu trong tiềm thức chúng ta cũng có tư tưởng tương tợ như thế. Có thể nói rằng đây cũng là một cách để mình tự trừng phạt lấy mình.

“ Anh kia say sưa tối ngày”, câu phán xét nầy có mục đích giúp chúng ta quên đi mình cũng là dân ghiền, nghiện ngập nicotine, thuốc lá, chocolat v.v...

“ cha nội đó lái xe ẩu tả quá...”

So sánh mình khác người .“Anh kia sao làm biếng quá”, khi phán xét như thế mình muốn chứng tỏ là mình siêng hơn họ. Người ta nghĩ sai, làm trật, họ khác mình. Vậy là mình là người nghĩ dúng làm đúng.

Cũng có thể mình so sánh điểm tương đồng và sự giống nhau với họ. “Chị kia hát hay quá, chị cùng một tuổi với mình, hoàn cảnh giống mình, vậy mình cũng có thể hát hay như chị ta được”.

“Bác sĩ kia quá tài ba quá. Hồi trung học, tôi học cùng một trường với ông ta đó”.

Đây là một sự so sánh, một lối lý luận quá đơn giản và có lợi.

Chúng ta thường phán xét những gì ở người khác?

- Bề ngoài:

Phán xét bề ngoài của một người có nghĩa là mình nghi ngờ về hình ảnh của chính mình. Tôi có khá hơn họ, đẹp hơn họ không? Tôi có thua kém họ không? Qua việc phán xét, mình quên đi trong chốc lát những yếu điểm của chính mình. Mình chỉ chú tâm vào kẽ hở của người khác.

Phán xét có thể bắt nguồn từ sự ganh tị: con nhỏ đó tuy đẹp nhưng nó có vẻ không mấy thông minh, không có nết, lẳng lơ quá…

Người đó là đại gia nhưng lại hết sức keo kiệt và bủn xỉn. Ông ta không bao giờ chịu giúp đở ai hết...

- Sự thông minh:

Tính thông minh đồng nghĩa với cường tráng (virilité) ở người đàn ông.

Phán xét sự thông minh của một người đàn ông thì cũng như đem hoạn (hay thiến) anh ta.

Đề cao trí thông minh của một người đồng nghĩa là mình có đủ tư cách để xác nhận sự thông minh của họ. Đây là thái độ chịu thua của mình.

- Cách hành xử:

Tấn công vào lối cư xử lố bịch của một người là một cách gián tiếp để mình tự xác định là lúc nào mình cũng đàng hoàng, ngon lành hơn họ và đồng thời mình thuộc vào nhóm người có tư cách.

Thái độ nầy cho thấy chúng ta có một tâm địa hẹp hòi hoặc là chúng ta sợ bị thải trừ ra khỏi xã hội.

Đứng về mặt giao tế, một người tốt, có giáo dục là một người mà chúng ta có thể giao tiếp được.

Ý niệm nhờ giáo dục (gia đình và học đường) mà một người trở nên tốt là những ý niệm chúng ta hấp thu được từ lúc nhỏ và cũng là điều mà chúng ta thường hay truyền đạt lại cho lớp con cháu.

-Ý kiến:

Phán xét về ý kiến cũng là một loại phán xét rất phổ biến. Trong các sách dạy cách xử thế chúng ta đều thấy lời khuyên bảo nên tôn trọng ý kiến của người khác mặc dù mình không đồng ý với họ.

Văn hào Pháp Voltaire (1694-1778) đã nói một câu để đời “ Tôi có thể không đồng ý với những gì anh nói ra, nhưng tôi sẽ bảo vệ quyền phát biểu của anh cho đến cùng” I do not agree with what you have to say, but I'll defend to the death your right to say it.

Bá nhơn bá tánh hay trăm người trăm ý và xin đừng quên hiện nay có 7 tỉ người đang sống trên thế giới.

Ngoài ra cũng có thể có một hạng người có thái độ ba phải, nay nói thế nầy mai nói thế khác...ý kiến họ thường có khuynh hướng xoay theo chiều gió.

Các tôn giáo nghĩ gì về vấn đề phán xét

Thiên Chúa giáo:

Chỉ có Chúa mới có quyền phán xét con người.

Matthew 7:1 (NIV)
“Do not judge, or you too will be judged

Matthew 7:2–5 (NIV)
For in the same way you judge others, you will be judged, and with the measure you use, it will be measured to you.

Phật giáo 

Phải có một cái nhìn đúng đắn và trong sáng (vision juste et nette).

Theo như cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải cho biết:

“Đức Phật không hề nói đừng bao giờ phán xét người khác. Câu đó là của Chúa Jesus trong Kinh Thánh.

Ngược lại, Đức Phật yêu cầu đánh giá người khác, để tìm bạn tốt, và tránh xa bạn xấu. Có hai chỗ có thể đọc về Thiện Tri Thức:

TĂNG NHẤT A-HÀM
Hán dịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà, người Kế Tân, thời Đông Tấn

Việt dịch: Thích Đức Thắng; Hiệu chú: Tuệ Sỹ

20. PHẨM THIỆN TRI THỨC

http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/tangnhat/tang_020.htm

Tự Điển Phật Giáo - Đại Tạng Kinh:

Thiện tri thức

http://tudien.daitangkinhvietnam.org/index.php?title=Thi%E1%BB%87n_tri_th%E1%BB%A9c

“Mặt khác, Đức Phật yêu cầu tự do trạch vấn, nghi ngờ (nghĩa là đánh giá -- judging) ngay cả đạo sư. Trong Kinh Kalama: "Này các Kalama, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì theo truyền thống, chớ có tin vì nghe người ta nói, chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng, chớ có tin vì nhân lý luận, chớ có tin vì nhân suy luận, chớ có tin sau khi suy tư về những dữ kiện, điều kiện, chớ có tin theo thiên kiến, định kiến, chớ có tin vì thấy thích hợp với khả năng, chớ có tin vì vị Sa môn là bậc Ðạo Sư của mình. (http://www.thuvienhoasen.org/haytuminhthapduoc.htm)

...tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một cái gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một cái gì khác”. (Ngưng trích)

Kết Luận

Phê phán người khác thì dễ, xét lỗi lầm của mình thì khó.

Chung quy cũng từ cái Tâm của mình mà ra.

Nếu chúng ta biết mở rộng cõi lòng, thì tất cả chúng sanh, kể cả người đã lám mình điên dại lên, đều có thể là bậc thầy của chúng ta hết. (Sư nữ Pema Chodron)./.

If we learn to open our hearts, anyone, including the people who drive us crazy, can be our teacher.” ~Pema Chodron

Pema Chưdrưn is a notable American figure in Tibetan Buddhism. A disciple of Chưgyam Trungpa Rinpoche, she is an ordained nun, author, and teacher in the Shambhala Buddhist lineage which Trungpa founded.(Wikipedia)

Tham khảo:

- Minh Niệm. Phán xét. Giácngộ online 27/6/2008
http://www.giacngo.vn/phathoc/2008/06/27/53445A/

- HT Thích Trí Quảng. Tòa án lương tâm. Giácngộ online 22/3/2009
http://www.giacngo.vn/phathoc/luockhao/2009/03/22/7F5019/

- What does the Bible mean that we are not to judge others?
http://www.gotquestions.org/do-not-judge.html

- Norbert Chatillon-Juger lautre, cest porter un jugement sur soi
http://www.psychologies.com/Moi/Moi-et-les-autres/Relationnel/Articles-et-Dossiers/Arreter-de-tout-juger/Norbet-Chatillon-Juger-l-autre-c-est-porter-un-jugement-sur-soi

http://www.point-fort.com/index.php?2008/11/04/322-juger-l-autre-c-est-porter-un-jugement-sur-soi

Montreal, 2013
Nguyễn Thượng Chánh, DVM

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.