Hôm nay,  

Trang Đất Việt: Nước Việt Nam

13/12/201200:00:00(Xem: 7931)
Nguyễn Lộc Yên
(tiếp theo)

Lịch sử hình thành đất nước Việt Nam:

Các nhà khảo cổ, khai quật ở Hoà Bình và Bắc Sơn; đã thể nghiệm rằng những người Việt cổ đã sinh sống tại miền Bắc VN ngày nay. Họ sinh sống từ thời kỳ đồ đá cũ, đến thời kỳ đồ đá mới, thì họ biết làm nông nghiệp với kỹ thuật lúa nước. Tham khảo qua một số cổ sử, nòi giống người Việt cổ (Bách Việt) bắt đầu lập quốc đầu tiên ở miền Lĩnh Nam, bao gồm một vùng rộng lớn phía nam sông Trường Giang (nay nước Tàu) đến vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã của nước Việt, tên nước là Xích Quỷ. Sử cũ ghi rằng, tộc người Việt hình thành từ năm 2879 (TCN) tại vùng Hồ Động Đình (Hồ Nam, nay thuộc Tàu).

Từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 3 (TCN), dân tộc Bách Việt (Điền Việt ở Vân Nam, Dạ Lang ở Qui Châu, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Triết Giang, Sơn Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt ở Quảng Tây, Lạc Việt...). Đa số bị người Hoa Hạ ở miền Bắc sông Dương Tử đến đánh chiếm, tiêu diệt hay đồng hoá; có lẽ bộ tộc Lạc Việt thì còn đông đủ nhất, di chuyển dần đến miền Bắc nước Việt ngày nay.

Khoảng thế kỷ thứ 7 (TCN), cùng thời Chu Trang Vương (696 TCN-682 TCN) của nước Tàu. Người Lạc Việt hình thành quốc gia trên vùng đất Bắc Việt ngày nay, tên nước là Văn Lang, do các vua Hùng trị vì; đóng đô ở Phong Châu (nay là Phú Thọ). Di tích Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) phát hiện văn hoá đồ đồng cách nay khoảng 3.000 năm (khoảng thời vua Hùng). Văn hoá Đông Sơn, phát hiện trống đồng và chế tạo các vũ khí (giáo, búa...) tức là văn hoá đồ sắt, cách đây khoảng 1.200 năm.

Năm 257 (TCN), Thục Phán là thủ lĩnh bộ tộc Âu Việt, chiếm được nước Văn Lang, sáp nhập lãnh thổ Âu Việt và Lạc Việt thành nước Âu Lạc; xưng hiệu là An Dương Vương.

Năm 207 (TCN), nhân nhà Tần có loạn, Triệu Đà thôn tính: Âu Lạc, Mân Việt, Quế Lâm, rồi thành lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (gần thành Quảng Châu). Vương quốc Nam Việt trong thời Triệu Đà, gồm: Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam ngày nay. Nước Nam Việt đến năm 111 (TCN), bị nhà Hán xâm lược. Đến năm 40 (SCN), Hai Bà Trưng khởi nghĩa giành được nền độc lập, nhưng chỉ 3 năm sau, lại bị quân Hán xâm lăng như cũ. Tiếp theo nhà Hán, các đế quốc Đông Ngô, Tấn, Tề, Lương, sang đô hộ nước ta.

Năm 541 (SCN), Lý Bôn (Bí) phất cờ khởi nghĩa, đã đánh đuổi được thứ sử Tiêu Tư nhà Lương, lập ra nước Vạn Xuân. Khi quân Lương trở lại xâm lăng, thì bị Triệu Quang Phục đánh tan. Nhưng vào năm 571, Lý Phật Tử đánh bại Triệu Việt Vương. Đến năm 602, Lý Phật Tử đầu hàng nhà Tùy, nước ta bị Tàu cai trị 336 năm nữa. Kế đến nhà Đường đô hộ lập ra An Nam đô hộ phủ, trên lãnh thổ nước Vạn Xuân cũ. Trong thời kỳ thuộc Đường, có nhiều anh hùng đã khởi nghĩa: Mai Hắc Đế, Phùng Hưng... đã giành được độc lập trong một thời gian mấy năm.

Năm 866 (SCN), nhà Đường đổi An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải, cử Cao Biền làm Tiết độ sứ. Năm 905, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa chiếm thành Tống Bình (Hà Nội), xưng là Tiết độ sứ. Năm 923, Khúc Thừa Mỹ bị quân Nam Hán bắt. Năm 931, Dương Diên Nghệ đánh chiếm thành Đại La; đến năm 937, ông bị Kiều Công Tiễn làm phản, ám sát chết, rồi cướp lấy binh quyền, sau đấy đầu hàng Nam Hán. Năm 938, Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán ở Bạch Đằng giang, có thể coi là trận chung kết

toàn thắng của dân tộc Việt Nam, trên con đường đấu tranh chống Bắc thuộc và chống đồng hóa. Nhìn vào bối cảnh Bắc thuộc kéo dài 1007 năm (là 4 lần Bắc thuộc, nếu tính 5 lần Bắc thuộc là 1103 năm) mới thấy hết ý nghĩa lịch sử vĩ đại của trận chiến này.

Năm 968, Đinh Tiên Hoàng thống nhất 12 Sứ quân, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Năm 1054, vua Lý Thánh Tông đổi tên nước là Đại Việt. Nhà Lý, nhà Trần mỗi triều đại trị vì Đại Việt trên dưới 200 năm; trong thời gian này các vương triều Lý, Trần chẳng những giữ gìn đất nước được yên ổn, mà còn mở mang bờ cõi về phương Nam. Đến năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, nhân cơ hội này nhà Minh (Tàu), nêu khẩu hiệu “phù Trần diệt Hồ” qua xâm lăng nước ta. Bắc Bình vương Lê Lợi đã lãnh đạo các tướng sĩ Lam Sơn và nhân dân Đại Việt đánh đuổi quân Minh tan tác chạy về Tàu. Năm 1788, Lê Chiêu Thống, kẻ “rước voi về giày mả tổ”, đã rước quân Thanh sang xâm lược nước ta. Xuân Kỷ dậu (1789), Hoàng đế Quang Trung, đánh tan tác trên 20 vạn quân Thanh xâm lược tại thành Thăng Long.

Năm1802, Nguyễn Ánh lên ngôi ở Phú Xuân (Huế), lấy hiệu Gia Long. Gia Long cử Lê Quang Định làm chánh sứ sang Tàu xin phong vương, đổi tên nước là Nam Việt, nhà Thanh lo ngại Nam Việt sẽ lẫn lộn với nước của Triệu Đà (gồm cả: Quảng Đông, Quảng Tây), nên đặt tên nước là Việt Nam.

Nam Bắc phân tranh: Nước Việt có thể nói là tới 3 lần Nam-Bắc phân tranh, gây cảnh tương tàn nồi da xé thịt.

A- Nam Bắc phân tranh lần 1, Lê (Trịnh) và Mạc: Phân tranh 47 năm (1545-1592): Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê, lập ra nhà Mạc. Nhà Lê Trung Hưng được tái lập sau đó, do Nguyễn Kim là một tướng cũ nhà Lê trợ giúp, đã giành được đất từ Thanh Hoá vào trong. Sau khi Nguyễn Kim chết, người con rể là Trịnh Kiểm nắm lấy binh quyền. Đến năm 1592, Trịnh Tùng đánh bại nhà Mạc, mở ra thời kỳ “vua Lê chúa Trịnh”.

B- Nam Bắc phân tranh lần 2, Trịnh và Nguyễn: Phân Tranh 45 năm (1627-1672): Thời gian các chúa Nguyễn trị vì ở Đàng Trong là 177 năm (1600-1777), lấy sông Gianh (Linh giang nay thuộc tỉnh Quảng Bình) làm ranh giới Bắc-Nam. Trịnh-Nguyễn đã đánh nhau 45 năm liên tục, từ năm 1627 (đời Lê Thần Tông), đến năm 1672 (đời Lê Gia Tông). Năm 1784, Nguyễn Huệ (nhà Tây Sơn) đem quân diệt Nguyễn Ánh. Năm1786, Nguyễn Huệ đem quân diệt chúa Trịnh, mới chấm dứt hoàn toàn Trịnh, Nguyễn phân Tranh.

- Thời gian Pháp thuộc và giành độc lập: Năm 1861, trung tướng Pháp là Charner đem 70 chiến thuyền và 3.500 lính, tấn công đồn Kỳ Hòa, đồn bị thất thủ. Ngày 9-5-1862, thiếu tướng Pháp là Bonard ký với Phan Thanh Giản hòa ước Nhâm tuất, VN nhường Pháp 3 tỉnh Miền Đông: Biên Hòa, Gia Định và Định Tường. Năm 1867, thiếu tướng pháp là De la Grandière đem quân chiếm 3 tỉnh Miền Tây: Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, Phan Thanh Giản thấy không giữ nổi, giao thành và uống thuốc độc chết. Năm Giáp tuất (1874), Nguyễn Văn Tường và Rheinart, ký hòa ước xác nhận: 6 tỉnh Nam VN, do Pháp toàn quyền cai trị. Nước VN lãnh thổ còn lại hoàn toàn tự trị. Ngày 23-7 Quý mùi (1883), Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hợp ký hòa ước với toàn quyền Harmand (hòa ước Harmand) và khâm sứ De Champeaux. Nước VN đồng ý để nước Pháp bảo hộ.

Ngày 6-6 năm Giáp thân (1884), các ông Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Phan, ký với Patennôtre (hòa ước Patennôtre). Từ đó thực quyền cai trị nước Nam đều do Pháp, triều đình Huế chỉ còn hư vị mà thôi!. Như vậy Pháp đô hộ toàn nước Việt Nam 61 năm (1884-1945). Nếu kể từ hòa ước Nhâm tuất (1862) là 83 năm. Pháp chia Việt Nam làm 3 miền: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Đứng đầu 3 kỳ là Thống đốc Nam kỳ, Khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ, cả 3 kỳ đều thuộc quyền giám sát và điều khiển bởi Toàn quyền Đông Dương.

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh Pháp, triều đình Huế hủy bỏ hòa ước Patenôtre (1884). Trần Trọng Kim làm thủ tướng và thành lập chính phủ ngày 17-4-1945, lần đầu tiên Việt Nam được tuyên bố độc lập. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, thì ngày 23-8-1945, chính phủ Trần Trọng Kim bị sụp đổ.


Cuối năm 1946, cuộc đàm phán giữa Pháp và Việt Minh thất bại. Hồ Chí Minh lập ra nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH). Chính quyền Pháp bị áp lực của dư luận quốc tế, đòi chấm dứt chiến tranh và trao trả độc lập cho nhân dân Đông Dương. Pháp phải tìm giải pháp chính trị có lợi cho Pháp là “ngăn chận chủ nghĩa cộng sản”.

Đầu năm 1947, Pháp cử đại diện gặp Bảo Đại, tỏ ý muốn

thành lập một nước Việt Nam độc lập. Để hậu thuẫn cho Bảo Đại đàm phán với Pháp về độc lập cho Việt Nam; các lực lượng chính trị: Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Đại Việt Quốc dân đảng, đạo Hoà Hảo và Cao Đài; đã liên kết thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất.

Ngày 7-12-1947, tại cuộc họp trên tàu chiến của Pháp ở Vịnh Hạ Long; Bảo Đại và Pháp ký kết Hiệp ước Vịnh Hạ Long, đã đồng thuận lập Quốc gia Việt Nam (QGVN) trên cơ sở độc lập và thống nhất một VN trong Liên hiệp Pháp.

Ngày 5-6-1948, Quốc Gia Việt Nam ký kết với Pháp, Hiệp ước Vịnh Hạ Long lần 2, với nội dung Pháp công khai công nhận nền độc lập của Việt Nam. Tháng 1-1949, Bảo Đại yêu cầu Nam Kỳ thuộc về QGVN, được Pháp đồng ý. Ngày 8-3-1949, Tổng thống Pháp là Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysé xác nhận nền độc lập của VN, chính thức thành lập Quốc gia Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại. Đến đầu năm 1950, có 35 quốc gia trên thế giới đã công nhận Quốc gia Việt Nam.

Hiệp định Genève 1954: Tham dự gồm có: Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nga, Tàu, VNDCCH, QGVN, Lào, Campuchia; được ký kết tại thành phố Genève của Thụy Sĩ. Ngày 20-7-1954, hội nghị Genève kết thúc. Ngày 21-7-1954, lập một bản tuyên bố chung: “Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Đông Dương: Việt Nam, Lào và Cambodia. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc; Chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam”. Thủ tướng của QGVN là Ngô Đình Diệm ra tuyên cáo phản đối việc chia hai nước Việt Nam. Nhưng cuối cùng chính phủ QGVN cũng tôn trọng hiệp định Genève ngày 20-7-1954, dùng sông Bến Hải, tại vĩ tuyến 17, làm giới tuyến quân sự. Từ hiệp định Genève, chia nước Việt Nam làm hai chính phủ Bắc và Nam riêng rẽ, tức là có hai nước VN riêng biệt. Miền Bắc do VNDCCH kiểm soát, miền Nam do QGVN kiểm soát. Theo điều khoản của Hiệp định, sau đấy quân đội Pháp rút dần về nước. Hiệp ước quy định 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội VNDCCH và Liên hiệp Pháp hoàn thành việc tập trung. Dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền. Sau 2 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất VN.

Số người từ miền Nam tập kết ra Bắc sau hiệp định Genève, không có thống kê đầy đủ. Nhưng theo Hội nghị tại Liễu Châu (Tàu) ngày 3-7-1954, trước khi ký hiệp định Genève, giữa Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai: Việt Minh (VM) dự tính rút khoảng 60,000 người, cả bộ đội và chính trị viên. Và VM dự tính sẽ lén gài người ở lại miền Nam từ 5,000 đến 10,000 người với vũ khí chôn giấu để chờ thời cơ. Trong khi đấy, số người từ miền Bắc di cư vào miền Nam khoảng 1 triệu người. Đây là đợt tỵ nạn Cộng sản đầu tiên và lớn nhất trong lịch sử Việt Nam; đợt tỵ nạn này cũng nói lên chế độ Cộng sản cai trị độc tài và chế độ Quốc gia cai trị trong thể chế tự do.

Ngày 4-6-1954, Thủ tướng Pháp là Joseph Laniel và Thủ tướng QGVN là Nguyễn Phúc Bửu Lộc, ký hiệp ước công nhận QGVN được độc lập hoàn toàn. QGVN không còn trong Liên hiệp Pháp nữa. Pháp đã công nhận độc lập QGVN, nhưng chưa muốn tách QGVN ra khỏi Liên hiệp Pháp.

Một năm sau ngày ký hiệp định Genève, Phạm Văn Đồng, thủ tướng VNDCCH, gởi thư ngày 19-7-1955, cho thủ tướng QGVN là Ngô Đình Diệm, yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, để bàn về việc tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo quy định của hiệp định Genève. Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm đã bác bỏ đề nghị của Bắc Việt, vì lý do chính phủ QGVN không có ký vào hiệp định Genève và không thể chấp nhận VNDCCH đã đặt quyền lợi Quốc tế Cộng sản lên trên quyền lợi quốc gia.

Ngày 23-10-1955, Trưng cầu dân ý, Quốc trưởng Bảo Đại bị phế truất. Thủ tướng Ngô Đình Diệm, được bầu làm Tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hoà (tại miền Nam) tức là nền Đệ nhất Cộng hoà Việt Nam và giải tán chính thể QGVN.

C - Nam Bắc phân tranh lần 3, giữa Quốc gia và Cộng sản: Phân tranh 21 năm (1954-1975); cuộc chiến giữa Việt Nam Cộng hoà (VNCH: Quốc gia, ở miền Nam VN) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH: Cộng sản, ở miền Bắc VN).

Miền Nam Việt Nam, do Tổng tống Ngô Đình Diệm lãnh đạo nền đệ nhất Cộng hoà (1955-1963), sau khi các tướng lãnh đảo chánh ngày 1-11-1963, tướng Nguyễn Khánh thực hiện “chỉnh lý”, nắm quyền lãnh đạo chính quyền, kế đến Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo (1965-1975) rồi ông Thiệu đắc cử Tổng thống năm 1967, lập nền đệ nhị Cộng hoà, Hoa Kỳ yểm trợ cả 2 nền đệ nhất và đệ nhị Cộng hoà ở miền Nam.

Miền Bắc Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo (1945-1969), nhưng thực sự kể từ năm 1960, Lê Duẫn bắt đầu thâu tóm quyền hành. Tổng bí thư thứ nhất đảng Cộng sản VN Lê Duẫn lãnh đạo (1960-1986), vì kể từ năm 1960, Lê Duẫn đã cô lập Hồ Chí Minh và Đại tướng Giáp với nhiều đảng viên Cộng sản cao cấp khác (Trên giấy tờ Lê Duẫn chính thức làm Tổng bí thư của đảng Cộng sản VN kể từ năm 1976?!). Đảng Cộng sản miền Bắc cùng Mặt trận Giải phóng miền Nam (MTGPMN), đều là Việt Nam Cộng sản (VC), được yểm trợ từ các nước Xã hội chủ nghĩa (Cộng sản): Tàu cộng, Nga cộng... Cuộc chiến đã lan ra toàn cõi Đông Dương, đến hai nước láng giềng là Ai Lao và Cao Miên. Cuộc chiến bắt đầu mạnh từ năm 1960, khi miền Bắc đưa quân xâm nhập miền Nam và thành lập MTGPMN.

Đặc biệt trong thời gian Nam Bắc phân tranh này: Tết Mậu thân, Việt cộng tấn công hầu hết các tỉnh thành miền Nam. Riêng tại thành phố Huế, VC đã sát hại quân dân cán chính VNCH khoảng 6.000 người, vì ngưng bắn (VC bội ước) họ về gia đình ăn tết, nên bị kẹt lại trong thành phố. Chiến dịch Lam Sơn 719 (Cuộc Hành quân Hạ Lào) do VNCH chủ động vào năm 1971 và Hè Đỏ Lửa do VC tổng tấn công năm 1972, đã gây cho không biết bao nhiêu quân sĩ 2 bên bị tử thương!. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris được ký bởi: Ngoại trưởng Mỹ William Rogers, Ngoại trưởng Cộng sản Bắc Việt Nguyễn Duy Trinh, Ngoại trưởng Chính Phủ Lâm thời miền Nam Nguyễn Thị Bình và Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Lắm. Nhân vật chủ chốt đàm phán là Henry Kissinger (Mỹ) và Lê Đức Thọ (VC). Chính hiệp ước này bức tử VNCH. Sau 21 năm nội chiến, chính thức kết thúc ngày 30-4-1975, khi Tổng thống bất đắc dĩ của VNCH là Dương Văn Minh đầu hàng. Trong suốt 21 năm chiến tranh, gây chết chóc vô số
(**).
_________________________
(**)- Quân đội của VNCH bị tử thương khoảng: 250.000 người. Hoa Kỳ bị chết: 58.209 người.

- Quân đội của VC bị tử vong khoảng: 1.100.000 người, trong số này bao gồm chết vì chiến trận, chết vì bị máy bay trên đường xâm nhập vào Nam và chết vì bệnh tật.Tàu cộng chết khoảng 1.100 người.

- Thường dân: VN bị chết khoảng 3.000.000 người, Cao Miên bị chết khoảng 70.000 người, Lào bị chết khoảng 50.000 người.

Tổng kết quân đội các bên (kể cả quân Mỹ; quân Tàu... tham chiến) và thường dân VN, Miên và Lào đã bị chết, ước tính khoảng 4.480.000 người.

(Còn Tiếp)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.