Hôm nay,  

Lửa Nối Nhau Chẳng Tắt

1/12/201200:00:00(View: 8987)
Lửa Nối Nhau Chẳng Tắt

Nguyệt Quỳnh
Nhưng lửa của tình yêu khi tức giận
Sẽ ra tro mọi lồng cũi mọi ngai vàng
Và những tên bạo chúa khôn ngoan
Hết ảo tưởng thôi van xin chờ đợi
Lửa sẽ bừng lên tự soi sáng cho mình
(Mấy đoạn thơ về lửa-Lưu Quang Vũ)
Những câu thơ trên dường như diễn tả đúng nhất tâm tình và hình ảnh những ngọn đuốc sống của các nhà sư Tây Tạng. Người ta nghe thấy những tiếng hô dõng dạc của họ hoà vào trong ngọn lửa: “Tự do cho dân tộc Tây Tạng!”; “Trung Quốc hãy chấm dứt đàn áp dân Tây Tạng…” Ngọn lửa đầu tiên bùng lên là ngọn lửa của vị sư trẻ mới 21 tuổi.
Mặc đù đối với giáo lý phật giáo, sự sống của con người, của muôn vật đáng quí vô cùng. Sự tự thiêu hàng loạt của các nhà sư này chứng tỏ điều họ cần còn đáng quí hơn chính cả mạng sống của họ. Và như những câu thơ của Lưu Quang Vũ: “Phút đốt cháy là phút nảy mầm, con người trao lửa cho nhau, từ những lồng ngực tròn căng…” Tất cả đều còn rất trẻ, vị sư đầu tiên tự thiêu vào đầu tháng ba năm 2011. Kế đến tại tỉnh Tứ Xuyên, sư Tsewang Norbu 29 tuổi, với quyết tâm không để ai cứu chữa, vị sư này đã uống xăng rồi mới tẩm xăng bên ngoài và tự mình châm lửa đốt. Những cuộc tự thiêu như thế cứ tăng nhanh dần, người thứ chín là một ni cô mới tròn 20 tuổi tại thành phố Aba, người thứ 12 là sư Dawa Tsering 38 tuổi từ tu viện Ganzi. Đây là những hy sinh vô cùng cao quí nhưng cũng cho thấy sự vô cùng tuyệt vọng của những người bị trị dưới bàn tay đẫm máu từ Bắc Kinh, đặc biệt từ thời Hồ Cẩm Đào nắm chức Bí thư Tỉnh ủy Tây Tạng. Chính nhờ công “bình ổn” Tây Tạng đó mà họ Hồ được Đặng Tiểu Bình gọi về thủ đô để chuẩn bị cho lên ngôi “bình ổn” toàn nước Tàu.
Ngài Karmapa, vị sư cao cấp của Phật Giáo Tây Tạng, người thân cận với Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng: “Mỗi bản tin về tự thiêu từ Tây Tạng gửi ra làm tràn ngập tim tôi những đau đớn”. Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng cũng không tán đồng việc tự thiêu này. Ngài nói với đài BBC trong một cuộc phỏng vấn rằng những hành động như vậy đòi hỏi sự dũng cảm rất nhiều nhưng mang lại rất ít hiệu quả vì Trung Quốc càng đàn áp mạnh hơn. Ngài nói rằng chỉ có “dũng” sẽ không đủ và người Tây Tạng cần phải dùng “trí” nữa. Nhưng ngài cũng cho rằng dưới chính sách cai trị “diệt chủng văn hóa” khắc nghiệt của nhà cầm quyền Trung Quốc, người dân Tây Tạng đã phải dùng phương pháp này chỉ vì tuyệt vọng.
Nét đặc thù văn hoá của dân tộc hiền hoà này được thế giới biết đến qua những bức tranh cát tuyệt hảo Mandala. Các nhà sư Tây Tạng đã bỏ hàng giờ có khi lên đến hàng tuần để hoàn tất một bức tranh cát. Nhưng ngay sau khi hoàn thành, họ lại xoá sạch ngay những bức tranh ấy. Sự xoá sạch những công trình này để thuyết phục người xem về bản chất vô thường của muôn sự vật trên thế gian này, dù có sặc sỡ, hoành tráng đến đâu đi nữa. Các tín đồ phật giáo Tây Tạng tự coi bản thân họ là một Mandala, vạn vật, kể cả chính họ là một vị Phật tiềm năng. Sau khi xoá, cát trong tranh được gom lại đựng vào trong một cái bình và được mang đến một dòng sông. Họ đổ cát ấy xuống dòng sông để sông mang cát ra đại dương, mang đi khắp thế giới hầu mong mang lại hòa bình và sự hài hòa cho cả hành tinh con người.
Hàng loạt các vụ tự thiêu của những con người nhân ái ấy đã làm rung động trái tim thế giới. Thế nhưng Trung Quốc lại gọi những hành động này là một loại “khủng bố”. Trong khi đó, các trò man rợ của công an đối với dân chúng Tây Tạng, đặc biệt là đối với thân thể các ni cô trong ngục tù, lại được ca tụng là công trạng bình ổn xã hội.

(Cách hành xử ngược ngạo này làm người ta nhớ tới cảnh những kẻ bán nước tống người yêu nước vào “cơ sở giáo dục” tại Việt Nam hiện nay; hoặc cảnh những nhóm công an thường phục và đầu gấu khủng bố thật các giáo dân, thậm chí ném mìn vào nhà Nguyện, thì được khen thưởng và trả tiền, trong lúc các nhóm công an sắc phục đốt hàng tỷ đồng để thu hình tập trận phòng chống khủng bố tưởng tượng).
Cũng có người đặt câu hỏi: tại sao ở Tunisia chỉ một vụ tự thiêu đã khiến toàn dân đứng dậy, trong khi tại Tây Tạng đã có đến 12 vụ tự thiêu mà ngọn lửa cách mạng vẫn không bùng lên được? Sự kiện này có thể nói bắt nguồn từ hai lý do chính. Lý do thứ nhất là đất nước Tây Tạng còn bị công an Trung Quốc xiềng xích quá chặt. Và cùng với công an là con số dân chúng người Hán được đưa qua để thực hiện chính sách đồng hoá. Số dân Hán này hợp tác chặt chẽ với công an để bảo vệ quyền lợi của chính họ. Do đó, cần phải có những bước giữa để nong rộng bớt vòng xích hiện nay trước đã, qua các hành động bất bạo động. Lý do thứ hai, tuy cách thức tự thiêu, dù cao quí, vẫn rất khó thành công vì số đông người Tây Tạng không thể bắt chước được. Yếu tố số đông khó có thể đạt được qua cách thức này, trong khi các cuộc cách mạng thành công tại Á Rập đã chứng minh vũ khí chiến lược này để đối đầu với một chế độ độc tài. Người dân tay không cần những cách thức dễ hơn để kết thành số đông.
Chuyện Tây Tạng cũng nhắc dân tộc Việt về số phận tương lai của mình nếu tiếp tục con đường hiện tại. Ngày Việt Nam trở thành một Tây Tạng thứ hai không còn là một dự đoán. Tai họa ấy đang diễn ra trong tiệm tiến và hòa bình. Đây mới là thứ “diễn biến hòa bình” đúng nghĩa! Nhìn về lãnh thổ, Trung Quốc đã lấy gọn Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và nhiều vùng đất dọc theo biên giới, chưa kể các vùng rừng cho không dưới danh nghĩa “cho mướn nửa thế kỷ”; Hoàng Sa, Trường Sa và cả vùng biển chung quanh 2 quần đảo này đã trở thành “sân sau” của Bắc Kinh. Bên cạnh đó, mượn tiếng khai thác bôxít tại Tây Nguyên họ đã đưa hàng ngàn người Trung Quốc lên “nóc nhà của Đông Dương”. Hàng trăm các hãng thầu Trung Quốc với hàng trăm ngàn người Hoa lập các khu riêng với bảng hiệu, tiền tệ mua bán, và sinh hoạt như đang sống tại Tàu. Thế vẫn chưa đủ, lãnh đạo Hà Nội còn cho xây hẳn những vùng chuyên biệt của người Hoa trên khắp các tỉnh, từ Nam chí Bắc. Hình ảnh lá cờ sáu sao trên tay các em bé Việt Nam khi đón Tập Cận Bình là hình tượng rõ nét nhất về một đất nước Việt Nam tương lai mà Bắc Kinh muốn nhìn thấy và Hà Nội đã vâng chịu.
Cái vòng kim cô của Trung Quốc đã nằm sẵn trên đầu nhưng kẻ lãnh đạo đất nước Việt Nam. Những ngày cuối năm, bản tin về các bản án tù dành cho người yêu nước cứ dồn dập, các thanh niên công giáo đã bị bắt cóc và đang bị bắt cóc mỗi ngày. Muốn hay không muốn thì bóng đêm đen tối của đất nước cũng đang đến gần. Điều khác thường xảy ra chỉ có thể được quyết định bằng chính sự dũng cảm của dân tộc Việt Nam. Chúng ta có đem được một mùa xuân đích thực cho quê mẹ như dân tộc Tunisia, Ai Cập hay không là chọn lựa của chính chúng ta. Và phương thức đấu tranh xem ra khả thi và hữu hiệu nhất ở giai đoạn này vẫn là phương pháp đấu tranh bất bạo động. Đã có rất nhiều dân tộc chọn phương thức đấu tranh này, đặc biệt trong suốt nửa thế kỷ qua, và đã thành công.
Những ngọn lửa tự thiêu ở Tây Tạng làm tôi chợt nhớ đến Lưu Quang Vũ. Anh là một nhà thơ, nhà viết kịch tài hoa. Anh đã thắp lên ngọn lửa của chính mình ngay từ thập niên tám mươi của thế kỷ trước. Tôi yêu vô cùng ngọn lửa của Lưu Quang Vũ — ngọn lửa không phải được đốt lên từ thân xác mà từ hành động. Ngọn lửa đó dường như đã được chuyển trao từ bao thế hệ cha ông:
“Nhân dân có gì giống lửa phải không anh.
Gió bão ngàn đời vẫn nối nhau chẳng tắt…”

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.