Hôm nay,  

Biểu tình nhìn từ sân trường Đại học Berkeley

12/12/201100:00:00(Xem: 10870)
Biểu tình nhìn từ sân trường Đại học Berkeley

buivanphu_20111210_bieutinh_h01_occupycal-large-contentSinh viên bãi khoá, biểu tình chống tăng học phí tại Sproul Plaza, Đại học Berkeley ngày 15-11-2011. (ảnh Bùi Văn Phú)













buivanphu_20111210_bieutinh_h02_rallyboatpeople-large-contentBiểu tình kêu gọi thế giới cứu giúp thuyền nhân vượt biển tại Sproul Plaza, Đại học Berkeley tháng 11-1979. (ảnh Bùi Văn Phú)









buivanphu_20111210_bieutinh_h03_thungo-large-contentThư ngỏ của 100 trí thức Mỹ gửi Hà Nội yêu cầu thả tù cải tạo và tôn trọng nhân quyền đăng trên các nhật báo lớn như New York Times, Los Angeles Times, San Francisco Chronicle ngày 30-5-1979. (ảnh Bùi Văn Phú)












buivanphu_20111210_bieutinh_h04_tranhtuong-large-contentTranh tường ở góc đường Haste và Telegraph ghi lại hình ảnh tranh đấu của sinh viên Đại học Berkeley trong thập niên 1960 và 70. (ảnh Bùi Văn Phú)


Bùi Văn Phú

Nhắc đến Berkeley nhiều người thường biết đây là một thành phố đại học, ở đó có trường U.C. Berkeley thành lập năm 1868 nổi tiếng với những khám phá của các giáo sư đoạt giải Nobel trong ban giảng huấn, nhiều nhất về khoa học tự nhiên từ thập niên 1960, sau còn thêm những giải Nobel về văn chương và kinh tế.
Dấu ấn của đại học này còn là cao trào sinh viên tranh đấu vì là nôi sinh của phong trào đòi tự do phát biểu quan điểm chính trị trong khuôn viên trường – Free Speech Movement (FSM). Theo sau là phong trào chống chiến tranh Việt Nam đã để lại những kí ức tương phản trong tâm thức người Mỹ cũng như người Việt.
Ngày mới từ trại tị nạn đến Berkeley định cư, nghe một người Mỹ nói ở đây có “Hồ Chí Minh Park” làm tôi tự hỏi Hoa Kỳ với cộng sản Bắc Việt đánh nhau như thế sao lại có một công viên vinh danh lãnh tụ Việt Nam trên đất nước này.
Hai tiếng “Việt Nam” được người Mỹ biết đến là qua cuộc chiến, sâu đậm nhất kể từ 1965 trở về sau. Trước đó, cuối thập niên 1950 Việt Nam còn xa lạ lắm. Tôi nhớ đọc được trong một tạp chí, khi nhắc đến “Vietnamese” có người Mỹ tưởng là người “Viennese” bên trời Âu.
Trong thế giới đối đầu lưỡng cực của cuộc chiến tranh lạnh thời bấy giờ, dân chúng nói chung ủng hộ chủ trương của Tổng thống John F. Kennedy tại Đông nam Á qua việc gửi cố vấn quân sự sang giúp chính quyền và quốc gia Việt Nam Cộng hoà mới được thành hình.
Tháng 3-1962, trong diễn văn tại lễ kỉ niệm 94 năm thành lập Đại học Berkeley, Tổng thống Kennedy nhấn mạnh: “Thế giới đang vươn lên này không hợp với trật tự thế giới cộng sản”. Ông nhắc đến những trí thức tốt nghiệp từ Đại học Berkeley giữ chức vụ quan trọng trong nội các đang góp phần vào việc hình thành chính sách của Hoa Kỳ: Bộ trưởng Quốc phòng (Robert McNamara), Ngoại giao (Dean Rusk), Chủ tịch Ủy ban Năng lượng Nguyên tử (Glenn Seaborg), Giám đốc CIA (John McCone).
Chủ trương của Mỹ trong thập niên 1960 là ngăn chặn làn sóng cộng sản. Nam Việt Nam được coi như tuyến đầu ở Đông nam Á để chắn giữ Trung Hoa đỏ. Tây Âu là tiền đồn phòng thủ ngăn chặn Liên Xô ở châu Âu.
Lịch sử cận đại cho thấy Hoa Kỳ thành công ở Đông Âu, nhưng thất bại ở Đông Á. Đầu thập niên 1990 cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara đã thừa nhận cuộc chiến Việt Nam là một “sai lầm khủng khiếp”.
Trong những năm đầu của quan hệ Mỹ và Việt Nam Cộng hoà đã có đại diện miền Nam đến diễn thuyết ở Đại học Berkeley. Mùa hè 1963 bà Ngô Đình Nhu đến để giải thích chính sách của chính quyền Ngô Đình Diệm đang bị dư luận và truyền thông Mỹ tố cáo đàn áp tôn giáo. Trong khi giáo sư Robert Scalapino, chủ nhiệm khoa chính trị học, giới thiệu Madame Nhu với sinh viên trong thao trường, bên ngoài có biểu tình phản đối và sinh viên đã xung đột với cảnh sát sau buổi nói chuyện.
Khi đó tại miền Nam phong trào sinh viên chống chính phủ cũng bùng lên tại các đại học từ Sài Gòn ra Huế. Theo năm tháng và tùy vào tình hình chính trị, sinh viên có những mục tiêu khác nhau: chống độc tài, quân phiệt; đòi tự trị đại học, tự do báo chí, chấm dứt chiến tranh, cải thiện chế độ lao tù; đòi quyền dân tộc tự quyết, thống nhất đất nước; chống tham nhũng v.v… Sinh viên kéo nhau từ trường văn khoa, nông lâm súc qua Dinh Thủ tướng, đến Hạ viện; từ trường luật kéo đến công trường Quách Thị Trang tức bùng binh Bến Thành, từ sân cỏ trước Bộ Tổng tham mưu qua Công trường Dân Chủ, từ nhà thờ Tân Sa Châu lên Đại học Vạn Hạnh.
Sinh viên miền Nam đã đi tiên phong ở Đông Á trong việc phát động biểu tình, kêu gọi xuống đường chống chính phủ.
Sau nhiều năm hoạt động bên ngoài khuôn viên đại học, FSM do Mario Savio lãnh đạo chính thức được phát động từ sân trường Đại học Berkeley vào mùa thu 1964 bằng tranh đấu quyết liệt qua nhiều cuộc biểu tình, bãi khoá và chiếm đóng Sproul Plaza. Ban quản trị đại học đã phải thay đổi chính sách để sinh viên cũng như giáo sư được tự do phát biểu quan điểm mà không sợ bị đuổi học hay mất chức. Phim tài liệu “Berkeley in the 60s” (Mark Kitchell, 1990) ghi lại đầy đủ những hoạt động của phong trào sinh viên tranh đấu ở Berkeley từ 1964 đến 74.
Sự thành công của FSM kéo theo phong trào chống chiến tranh Việt Nam. Thời gian đó sinh viên thường xuyên biểu tình, đem cờ xanh đỏ của Mặt trận Giải phóng miền Nam xuống đường phản đối sự can dự của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đòi rút quân, chấm dứt chiến tranh, trả lại quyền định đoạt tương lai chính trị cho dân Việt.

Nơi tụ họp trước khi xuống đường là mảnh đất ở góc đường Hillegass và Derby được thành phố Berkeley qui hoạch làm công viên từ năm 1971. Theo cổng thông tin của thành phố, khi cuộc chiến ở Việt Nam lên cao độ và làn sóng phản chiến lan rộng, những nhà hoạt động cộng đồng gọi nơi này là “Hồ Chí Minh Park”.
Thời đó, một thủ lãnh sinh viên Sài Gòn là Đoàn Văn Toại đã đến Berkeley diễn thuyết về phong trào đấu tranh của sinh viên miền Nam với những mục đích không khác với sinh viên Mỹ. Năm 1980 có dịp gặp anh ở Đại học Berkeley và được nghe kể rằng khi đi diễn thuyết, đến nhà trọ sinh viên thấy treo hình ông Hồ Chí Minh, cờ Mặt trận mới biết ông Hồ được coi trọng và sinh viên có nhiều cảm tình với Mặt trận.
Sau khi Hoa Kỳ rút hết quân vào năm 1973 và với chiến thắng của miền Bắc Việt Nam vào năm 1975, sân trường không còn biểu tình chống chiến tranh nữa.
Nhưng cảm tình dành cho Hà Nội và Mặt trận sau ngày 30-4-1975 dần bị phai mờ vì những nhà tù cải tạo và đàn áp được nhiều nhân chứng kể lại, như Đoàn Văn Toại với tác phẩm Vietnamese Gulag. Nhiều trí thức không còn ủng hộ Hà Nội. Tháng 5-1979, cả trăm người đã kí tên vào một thư ngỏ do ca sĩ Joan Baez khởi xướng đăng trên các báo lớn ở Mỹ kêu gọi Hà Nội thả tù cải tạo, chấm dứt đàn áp trí thức, văn nghệ sĩ.
Sân trường thỉnh thoảng vẫn có sinh hoạt liên quan đến Việt Nam như chiếu phim “Chiến thắng năm Mão”, “79 mùa xuân của Bác Hồ”, “Hearts and Minds” (Peter Davis, 1974), “Vietnam: an American Journey” (Robert Richter, 1979) hay diễn thuyết của Don Luce, John Spragen - người đã dịch tác phẩm Đại thắng mùa Xuân của Tướng Văn Tiến Dũng sang Anh ngữ - sau những chuyến đi Việt Nam; của Joan Baez về nhân quyền và người tị nạn Đông Dương, của các giáo sư Hoàng Tụy, Nguyễn Văn Hiệu đến từ Việt Nam nói về toán học và khoa học. Các buổi chiếu phim Việt bị người tị nạn phá nên phải ngừng. Các diễn giả thường bị chất vấn về tình trạng nhân quyền và những đàn áp ở Việt Nam.
Đầu năm 1979 Hội Sinh viên Việt Nam (VSA) tại Đại học Berkeley chính thức ra đời nên khuôn viên trường có nhiều sinh hoạt văn hoá, xã hội, thể thao, hội thảo nhân quyền.
Cùng năm 1979 thành phố Berkeley bầu chọn thị trưởng mới là Eugene Gus Newport, một người cực tả - được cư dân Berkeley cho là rất tiến bộ - và đã chọn ngày May Day 1-5 để nhận chức. Trong thời gian lãnh đạo thành phố ông đi thăm Cuba dù Hoa Kỳ cấm vận. Dịp kỉ niệm 5 năm chiến thắng của Bắc Việt ông gửi thư chúc mừng đến Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Nhưng với hình ảnh Việt Nam hậu chiến ngày càng xấu đi về nhân quyền, thiếu tự do nên cảm tình cư dân cũng giảm đi nhiều. Tháng 5-1982, nơi đã xuất phát biểu tình chống chiến tranh được đặt tên nhưng những nhà hoạt động không thể giữ tên “Hồ Chí Minh Park” như họ thường gọi trước đó. Thành phố chính thức đặt tên cho công viên này là “Willard Park” để vinh danh Frances Willard (1839-1898) một nhà giáo dục và là người tranh đấu cho quyền bầu cử của phụ nữ Mỹ.
Cũng cần nói thêm, ở Berkeley có một công viên khác mang tên Peoples Park mà có người lầm tưởng là “Hồ Chí Minh Park” vì gần công viên này, nơi góc đường Haste và Telegraph có tranh tường vẽ lại hoạt động của FSM, của phong trào phản chiến với cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam trên đó.
Peoples Park – Công viên Nhân dân - nằm gần đại học hơn, rất nổi tiếng vì nhà trường nhiều lần muốn dùng làm nơi đậu xe hay xây kí túc xá nhưng luôn gặp sự phản đối rất mạnh của những nhà hoạt động cộng đồng. Nơi đây xảy ra nhiều xung đột giữa dân với cảnh sát và vệ binh quốc gia từ thập niên 1960 kéo dài đến 1990.
Công viên này đúng là biểu hiệu sức mạnh của cư dân Berkeley, thành phố đã từng được gọi là “People”s Repbulic of Berkeley” - Cộng hoà Nhân dân Berkeley.
Gọi vui thế thôi. Berkeley tuy theo khuynh hướng cực tả nhưng không cộng sản chút nào vì cộng sản thì làm gì có biểu tình hay tự do phát biểu. Mọi chính quyền Mỹ đều bị chống đối nơi sân trường Berkeley vì quan điểm chung ở đây là không muốn Hoa Kỳ trở thành sen đầm thế giới. Nhưng cũng ở đó bạn sẽ thấy bàn sinh hoạt của sinh viên theo đảng Dân chủ lẫn Cộng hoà, của Iran và Iraq, thấy Do Thái bên cạnh Palestines.
Ở đây chủ nghĩa Marx chẳng hấp dẫn được nhiều người. Đầu tháng trước có hội thảo quốc tế về Marx trong Evans Hall, thu hút hơn 50 người. Vài tuần trước ngoài Sproul Plaza có biểu tình chống tăng học phí, chống cắt giảm ngân sách giáo dục, thu thuế bất công. Buổi tối chia nhóm thảo luận chỉ 10 người theo nhóm xã hội chủ nghĩa International Socialist Organization. Còn lại vài trăm theo “Occupy Cal”.
Thời còn đi học, một sinh viên ban tiến sĩ mới từ Trung Quốc qua du học thấy biểu tình nơi thường có nơi sân trường, anh nói với tôi biểu tình nhiều thế là loạn mất. Tôi bảo không loạn đâu vì đó là phản ánh của một nước Mỹ tự do.
Gần đây lãnh đạo trong nước và các nhà ngoại giao Việt Nam nói muốn nâng quan hệ với Hoa Kỳ lên tầm chiến lược. Với vị trí địa lý của Việt Nam, khi nào người dân Việt được tự do biểu tình, phát biểu chính kiến, lựa chọn lãnh đạo khi đó quan hệ với Hoa Kỳ sẽ ở tầm chiến lược.
Cứ nhìn vào quan hệ của Hoa Kỳ và các nước láng giềng với Việt Nam, trừ Trung Quốc, là biết.
© 2011 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với cuộc tranh chấp nội bộ trong kế hoạch tìm người kế nhiệm lãnh đạo khóa đảng XIV, nhiệm kỳ 2026-31. Những tranh chấp này được giữ kín để tránh hoang mang nội bộ. Chúng bộc phát ngay tại các Đại hội đảng địa phương và các ban đảng từ tháng 10 năm 2023...
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
Chúng ta đang bước vào năm bầu cử. Năm 2024 sẽ có một cuộc bầu cử có tính quyết liệt, vì các lựa chọn chắc chắn sẽ gây tranh cãi trong nội bộ cộng đồng gốc Việt, trong các gia đình người Việt, giữa các lựa chọn về cấp tiến và bảo thủ, giữa các thế hệ trẻ và già ở hải ngoại. Và chắc chắn là bầu cử tháng 11/2024 tại Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng tới cuộc chiến Trung Đông, cuộc chiến ở Ukraine, và ở cả Đài Loan. Tác động như thế nào, chúng ta khó đo lường hết tất cả các ảnh hưởng. Trong đó, một tác động lớn là từ tin giả, nói kiểu Mỹ là Fake News, tức là tin không thật.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.