Hôm nay,  

Mấy nét chính yếu về Xã hội Dân sự tại miền Nam Việt nam trước năm 1975

25/10/201100:00:00(Xem: 6009)

Mấy nét chính yếu về Xã hội Dân sự tại miền Nam Việt nam trước năm 1975

Đoàn Thanh Liêm

Cho đến năm 1975, thì tại miền Nam Việt nam, ít có ai nói hay viết gì về chuyện Xã hội Dân sự (the civil society = XHDS). Tuy nhiên, từ mấy chục năm gần đây, thì khái niệm XHDS đã trở thành rất thông dụng phổ biến trong các sách báo, trong lãnh vực truyền thông khắp nơi trên thế giới. Và như ta đã thấy XHDS chính là cái khu vực thứ ba (the third sector) bên cạnh khu vực chính quyền nhà nước (the state) và khu vực thị trường kinh doanh (the marketplace). Cả ba khu vực này khác biệt với nhau, nhưng cùng sinh họat chung với nhau trong tư thế cộng đồng sinh tồn (co-existence) để tạo thành cái không gian xã hội (the social space) do tập thể con người chúng ta sinh sống hợp quần trong xã hội mà tạo lập ra. Để tóm tắt cho gọn cái định nghĩa về XHDS, ta có thể biểu thị bằng một phương trình đơn giản như sau đây :

“ Không gian xã hội = Nhà nước + Thị trường + Xã Hội Dân Sự”.

Khu vực nhà nước gồm các đơn vị cơ sở chính quyền các cấp từ địa phương đến trung ương. Khu vực thị trường kinh doanh gồm các công ty, xí nghiệp họat động với mục đích tìm kiếm lợi nhuận (for profit). Còn khu vực XHDS, thì gồm các tổ chức “phi chính phủ” họat động có tính cách tự nguyên và bất vụ lợi ( non-governmental, voluntary, non-profit organisations).

Theo tiêu chuẩn này, thì rõ ràng là tại xã hội ở miền Nam Việt nam hồi trước đã có một khu vực XHDS rất sinh động, khởi sắc. Với bài viết này, tôi xin cố gắng ghi lại mấy nét đặc sắc của XHDS - mà cho đến nay ít có người đề cập đến với sự trình bày gọn gàng mà bao quát cần thiết - để người đọc bình thường có thể hình dung ra được cái khung cảnh sinh họat của một bộ phận có tầm vóc và tiềm năng thật to lớn của dân tộc tại miền nam, dù là trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt tang thương đẫm máu thuở đó.

1 - Một số đoàn thể, hiệp hội tiêu biểu.

A/ Hội Hồng Thập Tự.

Hội này có một trụ sở khá là bề thế khang trang, tọa lạc tại góc đường Cống Quỳnh và Hồng Thập Tự, gần với Bảo sanh viện Từ Dũ Saigon. Trước năm 1975, Dược sĩ La Thành Trung giữ nhiệm vụ Hội trưởng. Tại nhiều tỉnh lại còn có các chi nhánh của Hội nữa. Hội HTT được tổ chức theo khuôn mẫu của HTT quốc tế, nên phương thức sinh họat khá là mở rộng, thông thóang hòan tòan theo lý tưởng nhân đạo, chứ không hề theo đuổi một mục tiêu chính trị nào. Và chính quyền tại miền Nam hồi ấy cũng không hề có hành vi nào nhằm can thiệp, khống chế tổ chức này. Về mặt đối ngọai, HTT hòan tòan được tự do liên lạc với Hội HTT Quốc tế (CICR = Comité International de la Croix Rouge) có trụ sở chính tại Geneva, cũng như liên lạc với các Hội HTT bạn ở các quốc gia khác. CICR là một tổ chức thuần túy nhân đạo nhằm giúp các nạn nhân thiên tai bão lụt, động đất, bệnh dịch hay do chiến tranh gây ra, được thành lập đầu tiên tại Thụy sĩ từ cuối thế kỷ XIX và sau này phát triển tại khắp nơi trên thế giới.

B/ Hội Hướng Đạo.

Tổ chức Hướng Đạo du nhập vào Việt nam từ thập niên 1930. Sau đó, trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp, sinh họat bị gián đọan một thời gian. Kể từ năm 1950, mới lại xây dựng lại riêng trong một số thành phố như Hanoi, Saigon trong vùng do chính quyền quốc gia kiểm sóat. Vào năm 1959, thì tại miền Nam đã có đến trên 3000 đòan viên họat động. Những hướng đạo viên kỳ cựu về ngành nam như Trần Văn Lược, Hùynh Ngọc Diệp, Trần Văn Khắc, Trần Điền, Nguyễn Văn Thơ v.v…là những nhân vật rất năng nổ họat động tại miền Nam. Về ngành nữ, thì các nữ hướng đạo có tên tuổi như Hòang Thị Đáo, Phan Nguyệt Minh, Trần Bạch Bích, Phạm Thị Thân v.v…đã tiếp tục gây dựng lại nền nếp sinh họat của nữ hướng đạo tại miền Nam cho đến năm 1975. Cả hai ngành nam, nữ hướng đạo đều được sự hỗ trợ của các bộ Giáo dục vả Thanh niên và được tự do liên lạc mật thiết với phong trào hương đạo quốc tế (the world movement of scout).

C/ Hội Văn Hóa Bình Dân.

Hội này được chính thức thành lập vào năm 1955 nhằm tổ chức các lớp học bổ túc văn hóa và dậy nghề cho đại chúng, mà thường được biết đến là Trường Bách Khoa Bình Dân. Đó là do sáng kiến và nỗ lực bền bỉ của các cựu sinh viên mới du học tại Mỹ về Saigon vào năm 1954, điển hình như Hùynh Văn Lang, Bùi Kiến Thành, Đỗ Trọng Chu v.v…Hội có giấy phép do Bộ Nội vụ cấp và đã họat động tại Saigon và các tỉnh địa phương liên tục cho đến năm 1975, giúp đào tạo chuyên môn căn bản cho hàng nhiều vạn học viên thuộc giới bình dân. Họat động có tính cách văn hóa xã hội này đã được nhiều người tham gia bằng cách yểm trợ về tài chánh và nhất là về nhân lực do các giảng viên tự nguyện đến giảng dậy miễn phí cho các lớp dậy nghề vào buổi tôi hay vào những ngày cuối tuần.

D/ Các tổ chức giáo dục, xã hội, y tế do các Tôn giáo điều hành.

Có thể kể đến con số hàng ngàn cơ sở xã hội nhân đạo và văn hóa giáo dục do các Tôn giáo lớn ở miền Nam như Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo đứng ra thành lập và điều hành tại khắp các địa phương. Cụ thể như các trường Bồ Đề của Phật Giáo, các trường do các Sư Huynh hay Nữ Tu của Công Giáo…, các trường Đại học tư lập như Vạn Hạnh của Phật Giáo, Minh Đức và Đà lạt của Công Giáo, Đại học Cao Đài ở Tây Ninh, Đại học Hòa Hảo ở Long Xuyên v.v…Và còn rất nhiều các chẩn y viên, cô nhi viện, viện dưỡng lão do các tôn giáo đứng ra tổ chức và điều hành tại Saigon và các tỉnh miền quê nữa.

II - Mấy nhân vật điển hình của Xã hội Dân sự tại miền Nam.

Trên đây là một số hiệp hội, cơ sở của tư nhân có tính cách tiêu biểu của XHDS. Dưới đây, tôi xin nêu ra một số nhân vật điển hình họat động rất nhiệt thành trong các tổ chức tư nhân để minh họa cho tình hình sinh họat của XHDS tại miền Nam trong các thập niên 1960 - 70. Để tránh sự hiểu lầm không cần thiết, tôi chỉ đề cập đến những vị đã không còn tại thế nữa.

1/ Đại Đức Thích Thanh Văn và Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội của Phật giáo.

Thầy Thanh Văn giữ nhiệm vụ làm Giám đốc của tổ chức này từ năm 1966 thay thế thầy Nhất Hạnh là vị Giám đốc Sáng lập tiên khởi. Trường TNPSXH nhằm đào tạo chuyên môn về công tác xã hội cho các tu sĩ nam nữ và Phật tử, theo phương thức vừa học vừa làm. Tôn chỉ của Trường chỉ gồm trong mấy chữ thật đơn giản : “Hiểu và Thương”. Tức là phải tìm cách hiểu biết về con người, về xã hội để mà bày tỏ tình yêu thương đối với nhân quần thông qua những hành động cụ thể thiết thực phục vụ xã hội. Sau một thời gian được huấn luyện tối thiểu, thì các học viên đều được cử đi thực tập theo các tóan công tác tại các địa phương nông thôn; rồi sau đó sẽ trở về cơ sở để học tiếp về chuyên môn và văn hóa.

Do tai nạn xe cộ trong chuyến đi thăm các trại định cư đồng bào nạn nhân chiến cuộc từ miền Trung tại Biên Hòa, Bà Rịa, thầy Thanh Văn đã tử nạn vào giữa năm 1972, lúc mới ở tuổi 30. Sự ra đi của Thầy đã để lại nhiều thương tiếc không những cho tòan thể gia đình TNPSXH, các Phật tử, mà còn cho cả nhiều người vốn có sự quan tâm đến sự dấn thân của lớp người trẻ nhằm phục vụ xã hội, đặc biệt là cho bà con ở nông thôn và các nạn nhân chiến cuộc trong thời kỳ chiến tranh tàn ác khốc liệt lúc đó.

2/ Nhà báo Đỗ Ngọc Yến và Chương trình Công tác Hè 1965.

Năm 1965, sinh viên Đỗ ngọc Yến mới có 23 tuổi, thế mà các bạn đã ủy thác cho anh giữ trách nhiệm của một vị Tổng thư ký lo điều hành tòan bộ chương trình họat động trong thời gian mùa Hè của giới thanh niên, sinh viên, học sinh trong phạm vi tòan lãnh thổ miền Nam Việt nam. Chương trình này là do sáng kiến của nhiều huynh trưởng trong phong trào sinh họat của giớ trẻ Việt nam với sự hợp tác của Đòan Thanh niên Chí nguyện Quốc tế (IVS = International Voluntary Services). IVS đã đứng ra vận động với cơ quan Viện trợ Mỹ USAID để cấp cho chương trình một ngân khỏan lên đến vài chục triệu đồng VN, để làm quỹ chi tiêu cho các sinh họat của chương trình này (mà có tên bằng tiếng Anh là : Summer Youth Program 1965).

Từ thời niên thiếu 13 -14 tuổi, Yến đã tham gia sinh họat trong hàng ngũ Hướng đạo sinh cùng với các bạn như Đỗ Quý Tòan, Trần Đại Lộc, nên anh khá quen thuộc với việc tổ chức các trại công tác cho giới trẻ. Vì thế mà các bạn đặt tin tưởng nơi khả năng và kinh nghiệm họat động của Yến với nhiệm vụ nặng nhọc là điều hành chương trình sinh họat có quy mô thật lớn lao này. Và quả thật, Yến đã tỏ ra khá thành công trong vai trò của người Tổng thư ký của chương trình Công tác Hè 1965, như nhiều người đã thấy. Ra hải ngọai, nhà báo Đỗ Ngọc Yến đã cùng các bạn xây dựng được một cơ sở truyền thông báo chí rất vững chắc, đó là tờ nhật báo Người Việt. Nhưng mà tiếc thay, do một căn bệnh hiểm nghèo, Yến đã qua đời vào năm 2006 tại California vào tuổi 65.

3/ Nha sĩ Phạm Thị Thân và Hội Thanh niên Thiện chí.

Cũng như Đỗ Ngọc Yến, chị Phạm Thị Thân đã tham gia sinh họat với phong trào Hướng đạo từ thời còn là một học sinh trung học ở Hanoi, và chị đã gắn bó suốt đời với Nữ Hương đạo, có lần giữ chức vụ Tổng Ủy viên nữa. Nhưng mà Phạm Thị Thân lại còn là một nhân vật nòng cốt của Hội Thanh niên Thiện chí Việt nam ở Saigon trong thập niên 1960 -70 nữa. Về nghề nghiệp chuyên môn Chị làm giáo sư tại Đại học Nha khoa, và còn mở phòng mạch tư chuyên về dịch vụ chăm sóc nha khoa nữa. Nhưng mà chị đã tự nguyện đem hết cuộc đời của mình để góp phần xây dựng và phát triển cho phong trào Hướng đạo và cho Hội Thanh niên Thiện chí. Chị sống độc thân, nên có thể dành nhiều thời gian cho việc dẫn dắt các thế hệ trẻ trong các sinh họat lành mạnh, hữu ích cho bản thân và cho cộng đồng xã hội, đúng theo lý tưởng cao đẹp của phong trào Hướng đạo sinh quốc tế, cũng như của giới thanh niên, sinh viên ưu tú khắp nơi trên thế giới vào thời kỳ sau thế chiến thứ hai. Nhưng mà căn bệnh ung thư quá ác đã cướp đi mạng sống của một vị niên trưởng gương mẫu trong thế hệ chúng tôi. Chị Thân đã trút hơi thở cuối cùng vào năm 2007 ở tuổi 75.

4/ Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang và Phong trào Du ca Việt nam.

Cũng như chị Thân và anh Yến, nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã gia nhập gia đình hướng đạo sinh từ thời còn rất trẻ, lúc còn là một học sinh ở Đà lạt. Do năng khiếu bẩm sinh, vào lúc mới có 14 -15 tuổi, đòan viên Nguyễn Đức Quang đã có thể sáng tác được một bản nhạc dành riêng cho các bạn trong đơn vị hướng đạo sinh của mình sử dụng trong các buổi sinh họat. Và vào tuổi đôi mươi lúc đang theo học Đại học Chính trị Kinh doanh ở Saigon, thì người nhạc sĩ trẻ này đã cùng các bạn thành lập ra Phong trào Du ca nhằm lôi cuốn giới sinh viên, học sinh ở khắp nơi vừa tham gia sáng tác, vừa tổ chức những buổi ca hát tập thể thật là say mê phấn khích trong các trại công tác phục vụ đồng bào, các cuộc cắm trại sinh họat ngòai trời. Với trọng trách là Trưởng xưởng Du ca, Quang đã đi nhiều nơi để mở những lớp đào tạo các “Du ca viên”, chuyền đạt tới thế hệ trẻ cái ngọn lửa yêu quê hương đất nước, yêu mến đồng bào ruột thịt của mình đang là nạn nhân của cuộc chiến tranh tàn khốc bi thương. Trong vòng 10 năm họat động, Phong trào Du ca đã quy tụ được cả chục nghệ sĩ sáng tác và đào tạo được đến cả hàng ngàn du ca viên ở Saigon và ở rất nhiều địa phương các tỉnh.

Quả thật Nguyễn Đức Quang đã để lại một dấu ấn thật sâu đậm nơi thế hệ thanh thiếu niên Việt nam trong thập niên 1960 -70.

Nhưng rồi lại một cơn bệnh đột quỵ đã đem mất đi “Con người Du ca muôn thuở Nguyễn Đức Quang” của thế hệ chúng tôi vào đầu năm 2011 vừa mới đây lúc anh mới ở tuổi 67, cũng tại California.

III - So sánh với tình hình sinh họat của XHDS tại miền BắcViệt nam.

Qua sự trình bày ở hai mục trên, chắc chắn quý bạn đọc đã có thể nhận ra tính chất năng động, phóng khóang và đa dạng của khu vực XHDS tại miền Nam VN thời kỳ trước năm 1975. Trong mục tiếp theo dưới đây, người viết xin đưa ra vài nét chính của XHDS tại miền Bắc dưới chế độ cộng sản, cũng vào thời kỳ 1954 - 1975, để bạn đọc có thể thẩm định được sự khác biệt giữa hai chế độ dân chủ tự do và độc tài cộng sản.

1/ Trước hết, dù dưới chế độ chuyên chế toàn trị của đảng cộng sản (totalitarian dictatorship), thì tại miền Bắc vẫn có một khu vực XHDS, vì vẫn có những tổ chức phi-chính phủ, bất vụ lợi vốn là các thành tố của XHDS. Các đoàn thể, hiệp hội như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đòan Thanh niên Cộng sản, Hội Nhà văn, kể cả Mặt trận Tổ quốc nữa, thì trên danh nghĩa đó là các tổ chức nằm ngòai khu vực chính quyền Nhà nước. Nhưng mà vì đảng cộng sản đã lũng đọan thao túng, biến các tổ chức đó thành ra những “cơ sở ngọai vi” của đảng, nên XHDS đã bị biến chất đi, không còn giữ được tính cách tự nguyện, tự phát đích thực của quần chúng nhân dân nữa. Tất cả các tổ chức này đã được lập ra và được sử dụng như là một thứ quân cờ dưới bàn tay ma thuật của một kỳ thủ duy nhất là giới lãnh đạo cộng sản mà thôi.

2/ Vì các tổ chức tôn giáo bị triệt để ngăn cấm không hề được tham gia vào bất kỳ những họat động từ thiện nhân đạo hay văn hóa giáo dục nào, cho nên tòan thể các tu sĩ và các tín đồ - thuộc Phật giáo cũng như Công giáo - đều không có cơ hội nào để phát huy sáng kiến và tài năng của mình trong sứ mệnh phục vụ nhân quần xã hội. Đó là một sự thiệt thòi quá lớn cho dân tộc vậy. Trong giới Phật tử ở miền Bắc, chắc chắn là có rất nhiều người có cái tâm Bồ Tát, nhưng ta không hề thấy có được những con người như Thầy Thích Thanh Văn và các học viên của Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ở miền Nam như đã ghi ở trên.

3/ Trong giới văn nghệ sĩ cũng vậy, tại miền Bắc cũng không thiếu gì những tài năng thiên phú trong các bộ môn nghệ thuật, nhưng họ đều bị chính sách khe khắt của đảng cộng sản khống chế trù dập, nên không thể làm sao mà có được những nghệ sĩ có sức lôi cuốn quần chúng như những Nguyễn Đức Quang, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An…Mà cái chế độ nghiệt ngã tàn bạo như thế cũng chẳng thể nào mà sản xuất ra được những nhân vật kiệt xuất như Phạm Thị Thân, Đỗ Ngọc Yến nữa vậy./

California, tháng Mười năm 2011

Đoàn Thanh Liêm

Ý kiến bạn đọc
26/10/201117:32:22
Khách
Cam on tac gia Doan Thanh Liem da co bai viet ve xa hoi Dan su tai mien Nam Viet nam truoc nam 1975, tuy nhien, chung toi thay trong bai viet, Ong da su dung mot vai chu (tu) cua VC, chang han nhu: "phương thức sinh họat khá là mở rộng, thông thóang hòan tòan..."(thông thóang: hai Dgt ghep lam mot), va "... những nhân vật rất năng nổ... " - (năng nổ:tt). Khi VC chiem mien Nam (4/75), chung ra suc su dung ngon tu toi tam,vo nghia do chung sang tao de nham thay the, huy diet ngon tu trong sang cua tieng Viet, tuy nhien, tu thap nien 90 tro di, chung da su dung lai chu nghia trong sang cua mien Nam nhu (năng động:dt) thay cho (năng nổ:tt).
Chi mong rang cac tac gia o hai ngoai khi viet, xn dung su dung chu nghia vo nghia, ngo nghe cua VC. Mong lam thay!
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với cuộc tranh chấp nội bộ trong kế hoạch tìm người kế nhiệm lãnh đạo khóa đảng XIV, nhiệm kỳ 2026-31. Những tranh chấp này được giữ kín để tránh hoang mang nội bộ. Chúng bộc phát ngay tại các Đại hội đảng địa phương và các ban đảng từ tháng 10 năm 2023...
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.