Hôm nay,  

Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào Được Đón Trịnh Trọng Hơn 2006

1/21/201100:00:00(View: 5599)
Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào Được Đón Trịnh Trọng Hơn 2006

Bùi Văn Phú
Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào vừa có chuyến công du Hoa Kỳ và đã được Tổng thống Barack Obama đón tiếp với tất cả mọi nghi lễ thường dành cho lãnh đạo các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ.
Ngay khi vừa đến Mỹ ngày 18.01, ông Hồ đã có một bữa ăn tối riêng với Tổng thống Obama. Sang hôm sau là nghi thức đón tiếp trọng thể dành cho một lãnh đạo quốc gia với súng đại bác chào mừng và quốc yến tại Bạch Cung có sự tham dự của hơn 200 quan khách, trong đó có nhiều người gốc Hoa như tài tử Jackie Chan, điêu khắc gia Maya Lin, dương cầm thủ Lang Lang, vận động viên trượt băng Michelle Kwan, nhà thiết kế thời trang Vera Wang, trung hồ cầm thủ Yo-Yo Ma, Thị trưởng San Francisco Ed Lee, Thị trưởng Oakland Jean Quan.
So sánh với chuyến công du Hoa Kỳ của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào vào năm 2006, dưới thời Tổng thống George W. Bush, thì cách Tổng thống Mỹ đón tiếp lãnh đạo Trung Quốc đã được nâng lên một cấp cao hơn.
Mời bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây về sự đón tiếp mà Hoa Kỳ đã dành cho Chủ tịch Hồ Cẩm Đào trong chuyến thăm viếng nước Mỹ năm 2006, cũng như phong cách Tổng thống Mỹ đã đón lãnh đạo Việt Nam để trong tương lai khi lãnh đạo Việt Nam công du Hoa Kỳ và sẽ được đón tiếp ra sao thì có thể đánh giá quan hệ hai nước đã tiến đến đâu.
*
Quan hệ Mỹ-Trung và Mỹ-Việt có bình thường không"
Khởi đầu bằng chính sách ngoại giao bóng bàn, dẫn đến chuyến đi Trung Quốc năm 1972 của Tổng thống Mỹ Richard Nixon, đến nay đã 34 năm. Sự kiện lịch sử nối tiếp trong quan hệ Mỹ-Trung là vào năm 1979, 30 năm sau ngày những người cộng sản lên nắm quyền ở Trung Quốc, Hoa Kỳ quyết định cắt đứt quan hệ với đồng minh Đài Loan, thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc và coi quốc gia cộng sản này là đại diện chính thức tại Liên hiệp quốc.
Từ đó đến nay, bất kỳ ai lên làm tổng thống Mỹ thì một chuyến thăm Trung Quốc không thể thiếu trong lịch trình công du, từ Tổng thống Jimmy Carter, Ronald Reagan, Bush (cha), Bill Clinton cho đến đương kim Tổng thống George W. Bush. Đáp lại, lãnh đạo Trung Quốc cũng không thể không đến Hoa Kỳ trong lúc cầm quyền, từ Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân đến Hồ Cầm Đào.
Suốt hơn 30 năm qua, tuy không phải là một liên minh quân sự nhưng hai nước đã đưa mức trao đổi thương mại lên mấy trăm tỉ đô la mỗi năm khiến nền kinh tế của hai nước trở nên lệ thuộc vào nhau trong thế giới ngày càng trở nên toàn cầu hoá. Trung Quốc cần mua máy bay, cần kỹ thuật cao, máy móc công nghiệp nặng để dùng trong việc phát triển kinh tế. Trong khi đó hàng gia dụng do Trung Quốc sản xuất được dân Mỹ ào ạt tiêu thụ với giá rẻ.
Nhưng trong mối quan hệ thương mại tốt đẹp đó tiềm ẩn những bất đồng, nhiều khi trở thành những sóng ngầm trong quan hệ hai bên.
Bài viết dưới đây của Melinda Liu từ Bắc Kinh và Richard Wolffe từ Bạch Cung trên tuần báo Newsweek ngày 01.05.2006, về chuyến đi Hoa Kỳ tháng trước của chủ tịch Hồ Cầm Đào cho thấy điều đó.
*
Chính sách ngoại giao đối với Trung Quốc của Bush: Lạc ý trong lời dịch
Chủ tịch Hồ Cẩm Đào có thể yên tâm một điều là hầu hết người dân Trung Quốc không thấy cảnh đau lòng trong cuộc đón tiếp dành cho ông tại Bạch Cung. Không ngay lúc này, điều đó đúng. Những cơ quan truyền thông do nhà nước kiểm soát chỉ cho khán giả ở quê nhà xem những góc cạnh đã được chọn lựa kỹ về chuyến công du Hoa Kỳ vào tuần trước. Nhưng dù với những nỗ lực nhịp nhàng của hơn 30 nghìn công an mạng của Bắc Kinh, những chi tiết đau lòng – qua tia sáng băng hình – đã nhoá lên trước mắt những người sử dụng Internet trong nước. “Tôi có thể tóm tắt cảm nghĩ của mình khi xem tin trực tuyến là: Tôi cảm thấy như bị hiếp”, một người ở Tianya tham gia một diễn đàn mạng từ lục địa đã viết như thế. “Nhưng tôi không biết ai làm điều đó hay những nỗi đau của tôi nằm ở chỗ nào.”

Đối với người Trung Quốc luôn muốn giữ thể diện, chuyến viếng thăm đã có vấn đề ngay từ khi bắt đầu lên kế hoạch. Những phụ tá của ông Hồ hy vọng có quốc yến. Thay vào đó, nhà lãnh đạo Trung Quốc phải chấp nhận một bữa tiệc trưa. Chuyện vòng vo đó là điều được biết trước. Nhưng một loạt những sự cố thiếu tính ngoại giao và những điều gây xấu mặt không tiên liệu trước đã làm cho vấn đề trở nên phức tạp gấp bội.
Trong buổi lễ đón tiếp ở Đông Viên trước thềm Bạch Cung, khi mở đầu chương trình người xướng ngôn Mỹ giới thiệu sai tên quốc gia ông Hồ đại diện là “Cộng hoà Trung Hoa”, tên gọi chính thức của Đài Loan, một đảo quốc trong vòng nửa thế kỷ qua đã là nguyên nhân chính cho những bất đồng giữa Hoa Kỳ và Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc. (Phụ tá của ông Bush nói phần dịch ra tiếng Hoa thì đúng với tên gọi của Trung Quốc)
Ngay sau lời giới thiệu lầm lẫn của người xướng ngôn, một chuyện đau lòng khác lại xảy ra. Khi ông Hồ vừa bắt đầu bài diễn văn, có một người hoạt động nhân quyền len trong đội ngũ phóng viên báo chí, la lối: “Chủ tịch Hồ! Ngày tàn của ông sắp đến rồi.” Người đàn bà ấy tiếp tục la lớn tiếng nhiều phút trước khi an ninh cảnh sát bắt đưa đi.
Sau đó trong Văn phòng Bầu dục ông Hồ nhận được lời xin lỗi từ chính người đã đón tiếp ông. “Đây là điều chẳng may. Tôi lấy làm tiếc vì sự việc đã xảy ra”. Tổng thống Bush nói với Chủ tịch Hồ. Nhưng lời nói đó là điều khó dịch cho những thông dịch viên nhà nước ở Bắc Kinh, vì tiếng Hoa có ít nhất bốn cách dịch từ “sorry” tùy theo mức độ tế nhị. Báo chí nhà nước phải nghĩ đến việc chọn ngôn từ nào để tô đen một cách chính xác lời xin lỗi của Hoa Kỳ mà sẽ ít làm cho ông Hồ mất thể diện nhất.
Dù vụ việc bị kiểm duyệt ở Trung Quốc, nhưng thông tin này đã được mau chóng truyền đi từ những người sử dụng mạng điện tử đến với quần chúng không nối mạng. Một số người tham gia diễn đàn cho rằng những la ó đó là âm mưu của người Mỹ - cho dù người phụ nữ đó đã bị giam giữ một đêm. Một người đa nghi so sánh việc làm của bà như “một con chó đang sủa để tìm lợi lộc từ ông chủ”. Nhưng những người khác thì nói ông Bush không phải xin lỗi. “Hoa Kỳ có thể cho phép những người phản đối vào Bạch Cung la ó!” Một ý kiến đưa ra tuần trước. “Đây là điều chứng tỏ họ bảo vệ quyền tự do phát biểu của công dân. Hãy nhìn vào Trung Quốc luôn tô mầu, sàng lọc, kiểm soát những gì người dân có thể có được. Đó là sự khác biệt giữa hai quốc gia.”
*
Qua chuyến đi Hoa Kỳ của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, nhìn lại chuyến đi của Thủ tướng Phan Văn Khải vào năm ngoái thì thấy có những điểm giống nhau.
Ông Khải và ông Hồ đến Mỹ đều đặt chân tới Seattle trước khi đến thủ đô Hoa Kỳ. Ở Seattle hai ông đều ghé thăm “người giầu nhất hành tinh” Bill Gates là chủ tịch công ty Microsoft. Ông Hồ được ông Gates chiêu đãi ăn trưa còn ông Khải thì không.
Đến Thủ đô Washington ông Hồ và ông Khải đều gặp biểu tình chống đối và có những sự cố làm mất thể diện. Ông Hồ bị la ó phản đối, ông Khải bị hất rượu vang. Hoa Kỳ không đãi quốc yến hai lãnh tụ cộng sản châu Á, nhưng ông Hồ được ông Bush chiêu đãi bữa ăn trưa, còn ông Khải thì không.
Ông Khải cũng như ông Hồ đều không ghé thăm California là nơi có đông người đồng hương nhất.
Chính vì sự khác biệt giữa chế độ dân chủ và cộng sản mà những đón tiếp dành cho lãnh tụ cộng sản vẫn có những giới hạn chừng mực. Đó là những dấu chỉ cho thấy quan hệ giữa Hoa Kỳ và những nước cộng sản tuy phát triển về thương mại nhưng luôn có trắc trở và chưa bao giờ được gọi là bình thường như quan hệ Mỹ-Nhật, Mỹ-Anh hay Mỹ-Pháp.
*
Tuy Hoa Kỳ đã trải thảm đỏ để đón Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, nhưng khi được phóng viên hỏi Trung Quốc hiện là bạn hay thù, Ngoại trưởng Hillary Clinton trả lời rằng bà hi vọng quan hệ hai nước sẽ bình thường.
© 2011, 2006 Buivanphu.wordpress.com

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.