Hôm nay,  

Lễ Hội Và Công Đức

01/01/201100:00:00(Xem: 5894)

Lễ Hội Và Công Đức

Cư Sĩ Nguyên Giác
Ông bà mình có câu “Có đức mặc sức mà hưởng.” Lời nói này đã bày tỏ lòng tin sâu vào luật nhân quả của nhà Phật, và có xuất xứ từ nhiều lời dạy trong Kinh Phật.
Thời gian qua, nhiều Phật Tử đã đóng góp trong các Phật sự như xây chùa tháp, cung nghinh xá lợi Phật, chiêm bái Phật Ngọc Hòa Bình, dự lễ hội hoa đăng, cúng dường trai tăng, vân vân... Một số người không hiểu đã gọi như thế là tu kiểu hình tướng, không thật là tu trí tuệ giải thoát. Lời phê bình đó chứa đầy ngộ nhận. Ngày xưa, khi Bồ Đề Đạt Ma nói việc xây chùa của Lương Võ Đế là “không có công đức,” thực ra là nêu lời khai ngộ, để thúc đẩy vua xa lìa cái chấp vào công đức đó thì mới có thể giải thoát.
Công đức -- tiếng Anh là merit -- là kết quả có từ những thân, khẩu, ý thiện lành, sẽ trổ quả trong kiếp này và sẽ mang theo sang kiếp sau. Công đức như thế sẽ giúp người tu trên đường giải thoát. Nếu không có đủ phước, chắc chắn không thể nào tu nổi. Thí dụ, nếu sinh vào một bộ lạc trong rừng sâu Châu Phi, tất không hề biết gì tới các tiện nghi xã hội văn minh, và pháp Phật cũng khó gặp trong đời.
Thí dụ, nếu sống ở núi rừng Đắc Lắc, luyện được đôi chân leo núi, gỉỏi vác nặng và đi chạy  nhanh nhẹn. Nhưng cũng không thể nào bằng một cô gái yếu đuối ở Sài Gòn lái chiếc xe máy hay xe hơi. Mới biết, dù tập luyện giỏi, cũng không bằng có phước. Tương tự, kinh doanh giỏi, cuối đời có nhiều tàì sản, cũng không bằng người sinh vào nhà hoàng tộc.
Người có phước đức sẽ có nhiều nhân duyên dễ tu học hơn, bởi vì nếu phải lao động ngày đêm mà vẫn không nuôi nổi gia đình, chuyện tu học tất nhiên trở ngại. Đôi khi nhờ phước đức tới sớm, nghiệp dữ có thể hoãn được. Cũng như một người dân ở Campuchia mang nợ hay làm tội, trốn sang Sài Gòn sống, không ai biết quá khứ, sẽ được hưởng phước của một người dân Sài Gòn, cho tới khi nào về lại Nam Vang mới bị đòi nợ.
Kinh Tăng Chi Bộ, bản do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, nơi Chương VIII Tám Pháp
phần (VI) (36) Phước Nghiệp Sự, có viết, trích:
“1.- Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản làm phước. Thế nào là ba"
2. Căn bản làm phước do bố thí, căn bản làm phước do giới đức, căn bản làm phước do tu tập.”(hết trích)
Chữ “tu tập” đó được hiểu là thiền định, có khi được hiểu là thiền tâm từ.
Nhiều người thường chấp rằng tu theo Phật là cần phải tìm một gốc cây hay hang núi để ngồi Thiền, còn mọi pháp khác chỉ là hình tướng không cần thiết. Thực ra, nghĩ như thế là sai lầm lớn, khi tách biệt tướng với tâm. Chỉ cần nhớ rằng, Ngài Mục Kiền Liên là đạị đệ tử của Phật, thần thông đệ nhất, vẫn không cứu nổi mẹ khi bà cứ đưa cơm lên là thành lửa cháy. Lúc đó, Phật mới dạy là cần gây dựng công đức, bằng cách cúng dường trai tăng, mới cứu nổi mẹ.
Hòa thượng Thích Minh Châu trong tác phẩm “Đạo Đức Phật Giáo và Hạnh Phúc Con Người,” nơi chương 16, đã viết, trích:
“...Tôn giả Mục-kiền-liên là một đệ tử lớn của đức Phật, và được suy tôn là bậc thần thông đệ nhất. Sau khi chứng quả A-la-hán. Ngài dùng thiên nhãn quan sát khắp các cõi sống thì thấy mẹ mình đang bị nạn đói khát dày vò trong cõi sống quỷ đói. Tôn giả bèn cầm bát cơm xuống cõi quỷ đói đưa cho mẹ. Mẹ cầm lấy bát cơm đưa vào miệng, thì cơm hóa thành than hồng cháy đỏ không tài nào ăn được. Tôn giả Mục-kiền-liên không biết làm sao được, bèn trở về xin Phật ra tay cứu giúp. Đức Phật nói: "Mẹ ông bao nhiêu đời sống xan tham keo kiệt, nên phải chịu khổ báo là quỷ đói, một mình ông không thể cứu nổi mẹ đâu. Phải nhân ngày rằm tháng bảy tổ chức cúng dường đức Phật và chúng Thánh Tăng mười phương nhờ vào sức mạnh chú nguyện của đức Phật và chúng Tăng mười phương thì mẹ ông mới có thể siêu thóat được".
Tôn giả Mục-kiền-liên vâng lời đức Phật dạy, đến ngày rằm tháng bảy là ngày tự tứ ra hạ của chư Tăng, đem thức ăn, đèn, sáp, hương hoa... đặt vào chậu lớn, cúng dường trai Tăng. Bà mẹ của Tôn giả Mục-kiền-liên nương nhờ vào uy lực của giới đức và phước đức của chư Tăng mười phương, và cũng nương nhờ vào công đức bố thí và lòng chí thành của Tôn giả Mục-kiền-liên, mà sớm thoát khỏi nỗi khổ của quỷ đói, nỗi khổ ví như nỗi khổ của người bị treo ngược, siêu thăng lên các cõi lành...” (hết trích -- nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/daoducphatgiao-minhchau-04.htm)
 Theo báo Tibet Sun ngày 26-7-2010, Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi lễ khánh thành tượng Đức Di Lạc Bồ Tát (Maitreya) cao 100 feet (30.4 mét)  tại Nubra Valley, Ấn Độ, với nhiều ngàn vị sư, quan chức và  dân chúng tham dự, đã cảm ơn ban tổ chức và những người xây tượng, nói, “Họ đã làm được nhiều công đức... Người ta sẽ được công đức đi nhiễu quanh tượng, và vì tượng cao nên có thể được ngắm từ xa, người nhìn ngắm tượng cũng sẽ có công đức...”
Như thế, chúng ta hiểu được vì sao Phật Tử thành kính tham dự các lễ hội Phật Giáo.
Đức Đạt Lai Lạt Ma viết trong cuốn “The Compassionate Life,” với các dòng chữ sau này đưa vào sưu tập “Dalai Lama Quote of the Week” đã ghi rằng khi những kẻ thù nghịch gây tổn thương chúng ta, chúng ta có thể mang ơn họ vì đây là cơ hội để tu hạnh kham nhẫn của bồ tát, “bởi vì công đức gây dựng từ pháp tu kham nhẫn chỉ có thể có cơ duyên cho mình tu là từ kẻ thù nghịch gây ra, nói nghiêm khắc là, chúng ta nên hồi hướng công đức của chúng ta để xin lợi ích cho kẻ đối nghịch.”


Theo truyền thống Phật Giáo Thái Lan, cụ thể có những cách vun trồng công đức như sau, theo thứ tự, trích:
“1. Xuất gia, thọ đại giới.
2. Góp tiền xây chùa.
3. Có một con trai đi tu, làm sư.
4. Hành hương các chùa Phật Giáo khắp Thái Lan.
5. Đóng góp sửa chùa.
6. Cúng thực phẩm hàng ngày cho các vị sư, và cho các ngày lễ linh thánh.
7. Trở thành một sa di.
8. Vào chùa tu các ngàỳ lễ quan trọng, và giữ bát quan trai giới các ngày này.
9. Giữ 5 giới trong mọi thời.” (hết trích -- nguồn, sách “Monks and Magic” của B.J. Terwiel, http://www.thaibuddhist.com/making-merit.html)
Đọc kỹ, các điều trên cũng tập trung vào ba căn bản: bố thí, giữ giới luật, tu tâm từ bi.
Tại Quận Cam, Nam California, người viết có quen thân một vị cư sĩ, tác giả nhiều sách nghiên cứu Phật Học. Vị này có một cậu con trai, đã tập cậu bé từ nhỏ là mỗi khi vào chùa là rút ít tiền ra đưa vào thùng  công đức và đọc lời nguyện, “Con nguyện xin mọi người được OK, hạnh phúc, khỏe mạnh và sẽ thành Phật.”  Vị cư sĩ đó cũng đã dạy con tạo dựng công đức.
Giữ giới là một công đức có đầy oai lực, không hình tướng, nhưng sẽ tác động vào thế giới các cõi. Như khi Ngài Angulimala được Đức Phật chỉ dạy cách chú nguyện để cứu một sản phụ. Ngài Angulimala  là kẻ đã giết nhiều người để tìm xâu 1.000 ngón tay làm tràng hoa, và đã rượt theo Đức Phật để tìm giết người cho đủ số thì được Đức Phật cảm hóa và cho theo thọ học giáo pháp. Tòan văn ghi trong Trung Bộ Kinh, kinh thứ 86.
Bản văn của Ngài Walpola Piyananda Thera như sau, trích dịch:
“Ngài Angulimala không an tâm, bởi vì ngay cả khi thiền định đơn độc ngài vẫn thường nhớ tới quá khứ và những tiếng kêu khóc thảm thương của các nạn nhân của ngài. Vì ảnh hưởng nghiệp dữ của ngài, trong khi đi khất thực trên đường ngài vẫn cứ trở thành mục tiêu cho dân chúng chọi đá và đánh gậy, và rồi ngài trở về tu viện Jetavana với đầu thương tích, máu chảy, mình đầy vết cắt, vết bầm, và được Phật nhắc nhở: “Con ta, Angulimala. Con đã xa lìa các ác pháp rồi. Hãy kiên nhẫn. Đây là ảnh hưởng các ác pháp con đã làm trong kiếp này. Nghiệp dữ của con lý ra sẽ làm con đau khổ xuyên qua vô lượng kiếp, nếu ta không gặp con.”
Một buổi sáng, trong khi đi khất thực tại Savatthi, ngài Angulimala nghe có người khóc đau đớn. Tới gần, ngài thấy một sản phụ đang lên cơn đau sản nạn, và gặp trở ngại khi sinh nở, thì ngài mới phản ánh rằng tất cả chúng sinh đều chịu khổ cả. Xúc động vì lòng từ bi, ngài tới gặp Đức Phật và kể về cơn đau của phụ nữ tội nghiệp kia. Đức Phật mới khuyên ngài đọc tụng các lời sự thực sau đây, và sau này các lời này được gọi là Angulimala Paritta (Hộ Kinh Angulimala). Tới trứơc người phụ nữ đang đau đớn kia, ngài ngồi trên một chỗ cách biệt sản phụ bởi một bức màn, và nói lên những lời sau này:
“Chị ơi, từ ngày tôi trở thành một a la hán,
Tôi đã không cố ý hủy diệt
Sinh mạng của bất kỳ chúng sinh nào.
Với sự thật này, xin nguyện cho chị an lành,
Và xin nguyện cho em bé chưa sanh của chị an lành.”
Ngay tức khắc, sản phụ sinh ra bé sơ sinh dễ dàng. Cả mẹ và con đều an lành và khỏe mạnh. Ngay cho tới bây giờ, nhiều vị vẫn còn đọc hộ kinh này, như tụng đọc thần chú.
Ngài Angulimala ưa thích sống trong đơn độc và ẩn dật. Về sau, ngài viên tịch bình an. Là một bậc a la hán, ngài đã thể nhập  đại bát niết bàn. (hết trích dịch)
Như thế, công đức giữ giới có oai lực như thế.
Đặc biệt, tạo dựng công đức cần nhất là tâm thành. Như Đại Sư Sogyal Rinpoche  đã kể trong cuốn “The Tibetan Book of Living and Dying” (Tạng Thư Sống Chết), kể về thời Đức Phật, có một bà cụ ăn mày thường nhìn thấy các vua, hoàng tử, dân chúng cúng dường Phật và chư tăng, nhưng bà cụ không có gì để cúng. Tới khi ăn xin đủ để có một đồng chì, mới mang ra người bán dầu để mua dầu cúng Phật. Người bán nói là tiền này không đủ mua gì cả, nhưng khi nghe nói bà cụ sẽ cúng Phật, người bán mới tặng bà cụ số dầu cần thiết. Bà cụ mang dầu về tự viện, thắp ngọn đèn, đặt trước Đức Phật và phát nguyện, “Con không có gì để cúng trừ chiếc đèn nhỏ này. Qua lễ cúng dường, trong tương lai con nguyện tỉnh thức mãi với đèn trí tuệ, cho con cứu tất cả chúng sinh ra khỏi nơi tối tăm. Con nguyện cứu họ ra khỏi mọi trở ngại, và đưa họ sang bờ giảỉ thoát.”
Đêm đó, dầu tất cả các đèn khác cạn và tắt. Nhưng ngọn đèn của bà cụ xin ăn vẫn cháy vào lúc bình minh, khi đệ tử Phật là ngài Maudgalyayana vào để dọn tất cả đèn. Khi ngài thấy chỉ có một ngọn đèn còn sáng, với dầu đầy, mới tìm cách làm tắt hoàì mà không được, dù là thổi hay lấy tay dập. Đức Phật mới nói rằng Maudgalyayana không tắt nổi đèn nàỳ, dù là lấy tất cả nước ở đại  dương cũng không dập tắt nổi, vì đèn này được cúng với tâm ý thanh  tịnh.
Như thế, hãy suy nghĩ:  với tâm thành, chỉ cúng một ngọn đèn, mà đã có cơ duyên để đời đời tu học thành tựu trí tuệ, huống gì là với tâm thành để cúng dường trong lễ hội hoa đăng.
Như thế, tu thiền tới mức đại thần thông như ngài Mục Kiền Liên, khi cứu mẹ phải nhờ vào oai lực của pháp cúng dường trai tăng.
Như thế, những pháp mà người khác tưởng như là lễ hội chấp theo hình tướng thực ra lại là cơ duyên giải thoát vô biên. Chỉ cần với tâm chí thành, thanh tịnh.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.