Hôm nay,  

Trong Cơn Khủng Hoảng

10/16/200800:00:00(View: 9667)

<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /> 

 

NguyễnXuân Nghĩa & RFA

 

...Việt Nam sẽ thiếu ngoại tệ trầm trọng và Mỹ kim sẽ còn lên giá...

 

Từ cuối tuần qua, hàng loạt kế hoạch cứu nguy tài chính đã được nhiều quốc gia ban hành. Tình hình kinh tế toàn cầu, nhất là của các nước đang phát triển, sẽ ra sao" Việt Long tìm câu trả lời qua phần trao đổi sau đây cùng nhà tư vấn kinh tế NguyễnXuân Nghĩa trong tiết mục chuyên đề kỳ này của Diễn đàn Kinh tế đài RFA.

 

Hỏi: Xin kính chào ông Nghĩa. Thời sự kinh tế tuần qua là một sự hoảng loạn của các thị trường chứng khoán trên toàn thế giới sau khi bị sụt giá kỷ lục nội trong một tuần. Thế rồi, tình hình bỗng như biến chuyển khả quan sau khi Hoa Kỳ và Âu Châu tung ra hàng loạt kế hoạch cấp cứu, khiến các thị trường chứng khoán cùng lên giá cũng với mức kỷ lục trong ngày Thứ Hai 13 và có vẻ hồi phục trong ngày Thứ Ba tuy rằng thị trường Mỹ có sụt giá chút đỉnh. Trong chương trình tuần này, xin đề nghị với ông là chúng ta cùng tìm hiểu xem rằng kinh tế của các nước đang phát triển như Việt Nam sẽ xoay trở thế nào giữa khung cảnh toàn cầu đầy bất trắc như vậy.

 

Câu hỏi đầu tiên, thưa ông, các kế hoạch cấp cứu gồm có những gì và có hy vọng cứu nguy nền kinh tế ở bên dưới sau cơn khủng hoảng tài chính ở bên trên hay không"

 

- Chúng ta đang ở giữa một trận bão với nhiều xoay chuyển đầy bất ngờ do tâm lý hốt hoảng của thị trường, cho nên mọi phân tích đều chỉ có tính cách nhất thời mà thôi và đây cũng là điều khó nhất cho những người làm truyền thông như chúng ta.

 

- Nhìn trên đại thể, người ta có thể thấy vài nét chính của nỗ lực cứu nguy tài chính như sau. Đầu tiên, ta có bốn khối kinh tế mạnh nhất địa cầu là Hoa Kỳ, Âu Châu, Nhật Bản và Trung Quốc. Từ 10 ngày qua, giới chức Hoa Kỳ và Âu Châu đã thảo luận và đề nghị nhiều giải pháp cứu nguy quyết liệt nhất vì hệ thống ngân hàng Âu-Mỹ bị chấn động nặng nhất. Trong khi ấy, Nhật Bản và Trung Quốc có tham dự thảo luận nhưng thực tế là chưa tham gia vào việc cấp cứu vì vấn đề kinh tế của hai xứ này lại khác, có khi còn nguy ngập hơn trong vài tháng tới mà ta sẽ nói sau.

 

Hỏi: Nói như vậy, ông cho rằng tuần qua mới chỉ có Hoa Kỳ và Âu châu tung ra kế hoạch cấp cứu mà thôi"

 

- Thực chất là như vậy, nếu ta nói đến những kế hoạch tích cực và có phối hợp giữa các nước. Về phần Hoa Kỳ và Âu Châu, ta có hàng loạt hội nghị cấp cao của lãnh đạo Anh, Đức, Pháp, Ý tại Paris hôm mùng bốn, rồi hội nghị các nhà lãnh đạo tài chính của nhóm G-7 trong hai ngày 10 và 11 tại thủ đô Hoa Kỳ. Kế tiếp là hội nghị mở rộng của nhóm G-7 với Liên hiệp Âu châu và 12 quốc gia có nền kinh tế mạnh nhất sau nhóm G-7 là Ấn Độ, Australia, Trung Quốc, Brazil, Liên bang Nga, Mexico, Nam Hàn, Saudi Arabia, Argentina, Indonesia, Nam Phi và Turkey. Đó là hội khị của khối G-20, quy tụ các nước sản xuất ra 90% sản lượng của toàn cầu. Qua ngày Chủ Nhật 12, ta có thượng đỉnh của lãnh đạo 15 nước Âu Châu trong khối Euro và Thủ tướng Anh; ta vốn biết Anh quốc không nằm trong khối tiền tệ thống nhất và không sử dụng đồng Euro. Chính là các kế hoạch cấp cứu của Hoa Kỳ và Âu Châu được công bố vào cuối tuần mới làm các thị trường xoay chuyển tạm gọi là khả quan hơn, hoặc ít ra là bớt hốt hoảng mà bán tháo.

 

Hỏi: Thưa ông, nội dung cấp cứu là những gì mà đem lại sự thay đổi ông gọi là tạm khả quan hơn"

 

- Sau kế hoạch cấp cứu trị giá 700 tỷ của Mỹ, rồi thượng đỉnh hôm mùng bốn của bốn đầu máy kinh tế mạnh nhất Âu Châu là Anh, Đức, Pháp, Ý, các thị trường chưa được trấn an và tuột giá mỗi ngày. Lý do chính là trong hoàn cảnh kinh tế toàn cầu hóa với quan hệ đầu tư nối kết các ngân hàng và doanh nghiệp các nước với nhau, các kế hoạch cấp cứu riêng lẻ của từng nước không giải quyết được vấn đề. Thí dụ cụ thể là kế hoạch cấp cứu của Hoa Kỳ có bảo lãnh cơ sở đầu tư của Âu Châu vào Mỹ không, hoặc đầu tư rất lớn của các nước Tây Âu vào các nước Đông Âu cũ thì sao" Nếu cứ theo nguyên tắc "đèn nhà nào nhà ấy rạng, mạng người nào người ấy giữ" thì người ta không ngăn được khủng hoảng tài chính và tiêu diệt luôn kinh tế thị trường giữa các nước với nhau. Vì vậy, các phiên họp cuối tuần qua mới tiến tới nguyên tắc tạm gọi là đồng bộ, dù chưa đạt một kế hoạch tổng thể và thống nhất thì cũng cho thấy nỗ lực chung giữa các nước. Đấy là một quyết định rất quan trọng về chính trị mà có khi ta không để ý.

 

- Thứ hai là về nội dung. Các nước Âu-Mỹ không chỉ bơm thêm thanh khoản hay tiền mặt vào thị trường để giải tỏa ách tắc tín dụng cho các ngân hàng và doanh nghiệp khỏi sụp đổ. Các nước thật sự mở rộng chế độ bảo đảm cho mọi cơ sở tài chính và còn đem tiền đầu tư thẳng vào phần vốn của các cơ sở này. Nói cho dễ hiểu thì chính quyền các nước đứng ra bảo lãnh và thay thị trường quyết định việc cấp phát tín dụng, hầu các doanh nghiệp cần vay tiền để duy trì sinh hoạt vẫn có thể vay được, và các ngân hàng hết sợ rủi ro mà dám cho vay mạnh mẽ hơn. Thoả thuận ấy đã phần nào trấn an thị trường và khai thông dần nạn tắc nghẽn tín dụng. Ta sẽ còn phải mất vài tuần mới thấy hết được tác động giải cứu rất mới và thật ra rất bất thường này.

 

Hỏi: Câu hỏi cuối trước khi ta qua phần hai là hậu quả cho các nước đang phát triển. Thưa ông, nỗ lực cứu nguy này có công hiệu hay không, tức là có đẩy lui được khủng hoảng hay không"

 

- Chúng ta chưa biết được vì tâm lý hoảng loạn của thị trường là cái gì đó mà mình khó đoán ra. Về thực chất, các kế hoạch ấy có hy vọng đẩy lui được khủng hoảng tài chính khiến hệ thống ngân hàng có thể vận hành tạm bình hòa và tăng thêm vốn kinh doanh. Tuy nhiên, ẩn số kinh hãi nhất vẫn là sự non yếu ít ai để ý của hệ thống kinh tế và tài chính Âu Châu. Người ta cứ tưởng rằng khủng hoảng bùng nổ tại Mỹ và lan qua Âu Châu chứ ít nhìn ra nhiều nhược điểm nội tại của các thị trường gia cư, tín dụng thứ cấp, ngân hàng và cả nạn bội chi ngân sách rất cao của nhiều nước Âu Châu. Cho nên, ta vẫn cứ phải chờ đợi nhiều đột biến bất ngờ trong hệ thống Âu Châu vào mấy tháng tới, nếu họ không thoát khỏi cơn khủng hoảng tài chính hiện nay.

 

- Trở lại kết quả chung cho kinh tế toàn cầu thì dù có đẩy lui được khủng hoảng tài chính, các nước vẫn không ngăn được nạn suy trầm kinh tế toàn cầu. Và cái giá rất cao phải trả cho việc cứu nguy tài chính ngày nay sẽ kéo dài tình trạng suy trầm, có khi dẫn tới suy thoái kinh tế trong suốt năm 2009. Đấy mới là kịch bản đáng sợ cho các nước đang phát triển hiện vẫn cứ tưởng là nằm ở ngoài tâm điểm của trận bão tài chính Hoa Kỳ và Âu Châu.

 

Hỏi: Thưa vâng, chúng ta bước qua phần hai của chương trình là hậu quả của vụ khủng hoảng này với các nước đang phát triển. Tình hình có thể nguy ngập tới mức nào"

 

- Kinh tế Âu-Mỹ không thiếu thanh khoản là tiền mặt, nhưng các ngân hàng, tức là hệ thống phân phối, bị ách tắc nặng vì mất niềm tin. Khi phải bơm thêm tiền và thay thế mạng lưới phân phối ấy để hồi phục thị trường, các nước Âu-Mỹ đều bị bội chi nặng và phải chấn chỉnh lại chi thu với nhiều mâu thuẫn có khi bùng nổ sau khi vượt qua cơn hốt hoảng hiện nay. Kinh tế Âu và Mỹ lại là thị trường nhập khẩu và nguồn đầu tư đáng kể cho các nước đang phát triển. Vì vậy, khủng hoảng tài chính rồi suy trầm kinh tế kéo dài sẽ đánh sụt lượng xuất khẩu của các nước đang phát triển và vét cạn nguồn đầu tư vào các nước này. Có khi nó còn gây phản ứng bảo hộ mậu dịch và tiêu diệt luôn vòng đàm phán Doha của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.

 

- Hậu quả là mức tăng trưởng của toàn cầu và nhất là của các nước sống nhờ xuất khẩu sẽ giảm mạnh, mà càng lệ thuộc vào xuất khẩu thì càng suy sụp. Ngược lại, điều này cũng cần được nhìn ra, trong hoàn cảnh suy trầm toàn cầu thì giá thương phẩm như nguyên nhiên vật liệu hay nông sản ngũ cốc cũng giảm. Nhờ vậy mà các nước đang phát triển sẽ bớt bị nguy cơ lạm phát từ bên ngoài vào. Nhưng nếu vì chế độ quản lý vĩ mô quá lỏng lẻo bên trong khiến tín dụng và tiền tệ tăng vọt trong quá khứ, thì họ vẫn bị lạm phát vì lý do nội tại. Và trong hoàn cảnh sản xuất suy trầm, bội chi ngân sách gia tăng cùng khiếm hụt mậu dịch, tức là bị nhập siêu và thiếu ngoại tệ, việc quản lý kinh tế còn khó khăn gấp bội. Hậu quả là năm 2009 này có thể thấy hàng loạt nhiều vụ khủng hoảng ngoại hối và các nước có dự trữ ngoại tệ thấp sẽ bị trước tiên và nặng nhất.

 

Hỏi: Trong nhiều chương trình vừa qua và ngay vừa rồi, ông nói đến khủng hoảng về ngoại hối, thính giả có thể muốn biết khủng hoảng đó là gì để còn phòng ngừa.

 

- Tôi xin lấy thí dụ thẳng vào chuyện Việt Nam. Trong năm tới, đà tăng trưởng suy ra toàn năm của kinh tế thế giới có thể chỉ còn từ 2,7 tới 3%, nghĩa là mấp mé định mức chính thức của nạn suy trầm toàn cầu theo quan điểm của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF. Trong hoàn cảnh ấy, với cơ cấu kinh tế lệ thuộc vào xuất khẩu tới 60%, chủ yếu là xuất khẩu vào hai thị trường Hoa Kỳ và Âu Châu, Việt Nam sẽ bị suy trầm nặng. Tốc độ tăng trưởng có thể chỉ còn chừng 5% chứ không được 6% như người ta dự đoán vào tháng trước.

 

Hỏi: Trong hoàn cảnh đó, các nước đang phát triển hay Việt Nam có thể làm được những gì"

 

- Khi tốc độ tăng trưởng giảm sút như vậy, người ta có thể bơm thêm tiền vào kinh tế bằng cách hạ lãi suất ngân hàng, hoặc có thể tăng chi để kích thích sản xuất. Nhưng làm như vậy thì lại bị kẹt vì áp lực lạm phát và bội chi ngân sách. Mà càng hạ lãi suất lại càng làm đồng bạc Việt Nam mất giá so với đô la. Trong khi ấy, Việt Nam bị nhập siêu nặng mà nếu xuất khẩu còn suy sụp thì mức nhập siêu sẽ chỉ tăng chứ không giảm. Khối dự trữ ngoại tệ vì vậy còn hao hụt thêm.

 

- Vả lại, số đầu tư nước ngoài được giải ngân theo tiến độ dự trù trước đây sẽ chậm hẳn lại nên Việt Nam sẽ thiếu ngoại tệ trầm trọng và Mỹ kim sẽ còn lên giá rất mạnh. Ngược lại, suy trầm tại Mỹ cũng tác động thẳng vào Trung Quốc, là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, nên ảnh hưởng đến đồng Nhân dân tệ theo hướng bất lợi cho Việt Nam. Vì vậy ta nên e sợ là Việt Nam sẽ bị khủng hoảng ngoại hối và khối dự trữ ngoại tệ quá mỏng sẽ không vực được giá của đồng bạc Việt Nam. Người ta nên e sợ điều ấy hơn là sự suy sụp của thị trường chứng khoán!

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.