Hôm nay,  

Sự Mầu Nhiệm Và Nét Đẹp Của Niệm Phật

8/14/201000:00:00(View: 6982)

Sự Mầu Nhiệm Và Nét Đẹp Của Niệm Phật

Đào Văn Bình
Pháp môn niệm Phật, câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” họăc ngắn gọn hơn “A Di Đà Phật” đã hiện hữu với dân tộc Việt Nam hơn ngàn năm nay. Lúc tôi lên tám tuổi (1950), sống ở Hải Phòng, bà nội thường kể cho nghe Hội Chảy Chùa Hương lúc bà nội còn trẻ (thập niên 1920 &1930). Lúc này đường đi còn khó khăn, đường lên Chùa núi dốc quanh co. Thế nhưng các cụ cứ chống gậy trúc mà miệng thì niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Theo lời bà kể lại thì chẳng mấy chốc mà leo tới nơi, chẳng mệt nhọc gì cả. Đòan người lên núi gặp đoàn người xuống núi, đòan người đi ra gặp đòan người đi vào. Khi gặp nhau ai nấy đều cất tiếng chào “A Di Đà Phật! ”. Câu niệm, câu chào âm vang cả một vùng núi non hùng vĩ, biến cuộc hành hương thành một hành trình vừa linh thiêng vừa nên thơ có lẽ độc đáo nhất trên thế giới. Hình ảnh này đã được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp ghi lại trong bài thơ Chùa Hương:
Mẹ bảo “ Đường còn lâu,
Cứ đi ta vừa cầu.
Quan Thế Âm Bồ Tát.
Là tha hồ đi mau.”
Trong đoàn người đi như nước chảy đó, giữa khói hương trầm nghi ngút, “Hương như là sao lạc” cô gái 15 tuổi – nhân vật chính của bài thơ Chùa Hương, theo cha mẹ đi chảy hội, vì còn e thẹn cho nên:
Thẹn thùng em không nói.
Nam Mô A Di Đà.
Lúc còn nhỏ thì không để ý. Nay lúc tuổi già, hồi tưởng lại tâm linh dân tộc, suy nghĩ lại câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hoặc “A Di Đà Phật” của dân mình mới thấy nó có một ý nghĩa linh thiêng và đẹp tuyệt vời. Nó không phải chỉ nằm trong phạm vi tôn giáo mà còn hòa nhập thành truyền thống văn hóa dân tộc. Nó trở thành phong cách sống hài hòa giữa đạo và đời. Khi đi chùa gặp nhau, hoặc trong các lễ hội Phật, chúng ta cất tiếng “A Di Đà Phật !” thì tiếng “A Di Đà Phật” trở thành một câu chào hỏi, một lời thân thiện, một lời mừng rỡ rằng ta còn có nhau, một lời chúc tụng, một sự  kính trọng, một ước vọng sau này (khi vãng sinh) sẽ lại gặp nhau trên Quốc Độ Thanh Tịnh của Phật A Di Đà.
Đó là hình ảnh đẹp ngòai đời. Còn trong gia đình, mỗi tối chúng ta thấy bà nội, bà ngọai, mẹ ta ngồi lâm lâm lần chuỗi hạt niệm Phật. Các cụ niệm Phật để làm gì vậy" Đối với chư tăng ni, hoặc Phật tử tu tại gia chắc chắn ai cũng đã hiểu rõ mục đích của niệm Phật. Thế nhưng đối với thế hệ trẻ, người khác đạo có thể họ không hiểu ông/bà/cha mẹ hoặc chúng ta niệm Phật để làm gì" Hoặc giả nếu có hiểu thì cũng có thể hiểu sai cho nên chúng ta cần nói ra cho rõ. Chúng ta cần phân biệt đi chùa lễ Phật và niệm Phật là hai chuyện hòan toàn khác nhau. Đi lễ chùa có khi chỉ là hành vi hòan tòan tín ngưỡng, nhưng niệm Phật lại là hành vi huân tập, tu dưỡng bản thân. Ngòai ra chúng ta cần phải làm sáng tỏ cái Có và Không Có trong niệm Phật để cho thấy Đạo Phật không phải là Thần Giáo, chuyên cầu nguyện van vái để xin xỏ cái này cái kia, rồi trở thành tôi tớ cho Thần Linh.
Những Cái Không Có Trong Niệm Phật:
1) Niệm Phật không phải để cầu xin Phật ban cho một điều ước nào đó.
2) Niệm Phật không phải để tăng thêm sức mạnh, thêm can đảm để đối phó với kẻ thù. Cho nên trong Phật Giáo trải qua hơn 2500 năm, không hề có chuyện một đòan quân lâm trận dương cao biểu tượng hay hình  Đức Phật để hăng máu, can đảm xông lên chém giết kẻ thù.
3) Niệm Phật không phải là để van xin Phật ban cho môt giải pháp để giải quyết một tình thế khó khăn.
4)  Niệm Phật không phải để xin Phật ban bố phép mầu, vặn cổ kẻ thù giúp chúng ta.
5) Niệm Phật không phải là quỵ lụy khóc than, trở nên hèn kém đối với Phật.
6)  Niệm Phật không phải xin Phật chỉ lối, đưa đường cho chúng ta buôn may, bán đắt.
7)  Niệm Phật không phải để dông dài kể lể, tâm sự chuyện kín, chuyện riêng tư với Phật.
8) Niệm Phật không giống như cầu nguyện, van vái Thần Linh.
9) Niệm Phật không phải để trở nên đời đời kiếp kiếp làm tôi đòi cho Phật.
10)  Niệm Phật nhất thiết không phải để quên đời.
Những Cái Có Trong Niệm Phật:
1) Niệm Phật để tâm hồn thanh thản.
2) Niệm Phật để an trụ tâm. Đang nóng nảy, niệm Phật lòng dịu hẳn xuống. Đang tức giận niệm Phật, lửa Sân từ từ hạ. Đang điên cuồng, niệm Phật tự nhiên bớt điên cuồng. Đang thù hận, niệm Phật hận thù hóa giải. Tham lam, niệm Phật bớt tham. Kẻ hung hăng, niệm Phật bớt hung hăng.
3) Niệm Phật để không cho niệm Ác nảy sinh. Nếu niệm Ác đã nảy sinh thì không cho nó phát triển. Do đó Chư Tổ nói rằng “Niệm Phật quên niệm Ma”. Khi niệm Phật thì tà ma, quỷ thần sẽ lánh xa.
4) Niệm Phật để giữ gìn Thân-Khẩu-Ý.
5) Niệm Phật là phương thuật giữ gìn Chánh Niệm.
6) Niệm Phật tới vô niệm chính là Thiền. Lúc đó sẽ không còn Chỗ Niệm (năng) và Người Niệm (sở),  hành giả hiển lộ Phật tánh có sẵn trong con người mình và đi vào trạng thái Định.
7) Niệm Phật để nuôi dưỡng lòng Từ Bi.
8) Niệm Phật riết rồi trở thành Phật chứ không phải trở thành nô lệ hay tôi tớ cho Phật.
9) Niệm Phật cũng là phép điều hòa hơi thở cho nhẹ nhàng. Đi, đứng, nằm ngồi đều có thể niệm Phật. Cho nên niệm Phật cũng là phép trị liệu, bảo vệ sức khỏe.
10)  Niệm Phật để giải trừ bớt Ác Nghiệp gây tạo trong quá khứ.
11)  Niệm Phật để lúc lâm chung chẳng còn lo sợ. Chẳng cần phải nhờ ai cứu rỗi. Một mình thẳng tiến lên Thế Giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.
12)  Càng niệm Phật đấu óc càng trong trắng, lòng dạ thảo ngay, tâm tính hiền từ.
13)  Kẻ ác khẩu, nói năng hung dữ chuyên niệm Phật sẽ giải trừ được khẩu nghiệp. Niệm Phật khiến ta không vấp ngã trong lời nói. Một lời nói lầm lỡ có thể tiêu tan sự nghiệp.
14)  Niệm Phật khiến lời nói dịu dàng, khiếm tốn do đó không gây thù chuốc oán, không bị “vạ miệng”.
15)  Mặt mày hung dữ, niệm Phật trở nên hiền từ, dễ coi. Niệm Phật để chuyển nghiệp.
16)  Niệm Phật khiến đi đứng dịu dàng, cử chỉ khoan thai.
17)  Niệm Phật có thể ngăn chặn được cám dỗ điên cuồng.
18)  Chán nản, thất vọng não nề, cùng đường không lối thoát muốn tự tử chết cho rồi, niệm Phật khiến tâm địa bình ổn từ đó mà tìm ra giải đáp hợp lý.
19)  Lâm vào vòng lao lý, tù tội mỗi tối nên ngồi ở tư thế “bán già”, xoay mặt vào tường niệm Phật khoảng nửa tiếng đồng hồ, sẽ thấy tâm hồn thanh thản, thời gian ở tù qua nhanh, không phạm thêm tội lỗi, may mắn ân xá, giảm án sẽ tới. Nhờ niệm Phật mà sau khi ở tù ra lấy lại tự tin để  xây dựng cuộc đời mới. Đây không phải là chuyện bịa đặt vì người viết bài này đã từng ở tù 9 năm. Những năm cuối cùng, tuyệt vọng, chán nản muốn tự tử chết, sau trở sang nghiên cứu Phật pháp, chuyên chú niệm Phật, kể cả tụng kinh và giờ đây dù bao gian khổ vẫn sống khơi khơi và sống đẹp.
20)  Trong một đám đông hỗn lọan, đâm chém, phẫn nộ, cuồng điên, niệm Phật khiến ta bình tĩnh, không hăng máu lao vào chuyện thị phi, hoặc a tòng theo phe này phe kia, bênh-chống, khiến sau này hối không kịp. Tâm bình thế giới bình là như thế. Xin nhớ cho bình an là chân hạnh phúc.
21)  Niệm Phật có thể trở thành Thánh Tăng. Cứ thử nhìn vào hình của Bồ Tát Thích Quảng Đức mà xem. Lúc nào trên tay ngài cũng có chuỗi hạt. Điều đó chứng tỏ ngài theo pháp môn Tịnh Độ tức tụng kinh, niệm Phật. Ai đã có lần gặp ngài phải ngạc nhiên, trong lúc ngồi hay đi, đứng, cả thân hình và khuôn mặt ngài ôn tĩnh như một pho tượng. Điều đó chứng tỏ ngài luôn luôn nhập Chánh Định, tức xác thân ngài ở đây nhưng thần thức ngài đã ở Quốc Độ tức ở Cõi Phật rồi. Chính vì thế mà vào năm 1963 để phản đối Ngô Triều đàn áp tôn giáo, ngài ngồi kiết già tại ngã tư Phan Đình Phùng –Lê Văn Duyệt, bật ngọn lửa để thiêu đốt thân hình, cả thân thể ngập trong biển lửa mà không hề lay động. Thế gới Phương Tây đã kinh hãi và kính phục gọi ngài là Bậc Đại Định. Đó là công năng của phép niệm Phật chứ ngài chẳng có phép mầu nhiệm của thần linh nào hết.


Tại sao niệm Phật lại có uy lực ghê gớm như vậy"
Niệm Phật phát xuất từ pháp môn Tịnh Độ mà pháp môn Tịnh Độ phát xuất từ bộ Kinh A Di Đà. Phật nói kinh này tại Thành Xá Vệ do tấm lòng thành của tỉ phú Cấp Cô Độc, dám trải vàng để mua vườn ngự uyển của Thái Tử Kỳ Đà làm đạo tràng cho Phật thuyết pháp. Trong pháp hội này Phật nói rằng Kinh A Di Đà còn có tên Nhất Thiết Chư Phật Hộ Niệm. Chúng ta hãy nghe lời Phật dạy ngài Xá Lợi Phất:
 “Này Xá Lợi Phất, ý ông thế nào" Sao gọi kinh này là Nhất Thiết Chư Phật Hộ Niệm" Xá Lợi Phất, nếu có thiện nam hay thiện nữ, nghe kinh này rồi mà chịu nhớ lấy, cả những danh hiệu, chư Phật sáu phương nghe rồi nhớ lấy, thì thiện nam ấy, thiện nữ ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm và được tới cõi A Nậu Da La Tam Miệu Tam Bồ Đề chẳng hề thối chuyển.“ Lại nữa, “ Xá Lợi Phất ơi, Phật kia sáng láng vô cùng, vô lượng, soi khắp các nước suốt cả mười phương, không đâu chướng ngại, vì thế nên gọi A Di Đà.”  (1)
Chính vì thế mà khi chúng ta cất tiếng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hoặc “A Di Đà Phật” thì chư Phật sáu phương cùng hoan hỉ và hết lòng trợ lực. Hơn thế nữa, vì hào quang của A Di Đà Phật chiếu xuyên suốt không chướng ngại cho nên, dù ở đâu, khi chúng ta niệm danh hiệu ngài thì Phật A Di Đà cũng sẽ hộ trì cho chúng ta đạt mục đích và không thóai chuyển.
Còn trong pháp hội ở Núi Kỳ Xà Quật, ông trưởng giả Diệu Nguyệt cũng là Phật tử tại gia (Ưu Bà Di) của Phật, từ trong đại chúng đứng lên khẩn thiết thưa thỉnh Phật như sau:
“Như Đức Thế Tôn từng chỉ dạy, đời mạt pháp các chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề cang cường, ngỗ nghịch, tâm tạp, nghiệp nặng, mê đắm ngũ dục, không biết hiếu thuận cha mẹ, không biết cung kính sư trưởng, không thực lòng qui y Tam Bảo, thiếu năng lực thọ trì năm giới cấm, làm đủ mọi chuyện tệ ác, phỉ báng thánh nhân v.v.. Cho nên con suy gẫm như thế này, phải có một môn tu thật đơn giản, thật tiện lợi nhất, dễ dàng nhất để tất cả những chúng sanh kia khỏi đọa vào các đường ác, chấm dứt luân chuyển sanh tử trong ba cõi, được thọ dụng pháp lạc (pháp vui), sớm bước lên địa vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.” Sau lời thưa thỉnh tiếp theo của Quốc Mẫu – Hoàng Thái Hậu Vi Đề Hi, Đức Phật đã dạy như sau:
“Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát-na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là pháp niệm Phật. Này Diệu Nguyệt cư sĩ, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, đủ lòng tin, thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì hiện tiền chiêu cảm được y báo và chánh báo của Phật A-Di-Đà ở cõi Cưc Lạc.” Và Đức Phật nhấn mạnh thêm “Đây là môn tu Đại Oai Lực, Đại Phứơc Đức.” (2) Ngay các bậc thượng thủ như Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền cũng đều niệm Phật. Còn thiền sư Bách Trượng (720-814) cũng phải nhận định rằng “Tu hành, dùng pháp môn niệm Phật là vững vàng nhất.” (3)
Những oai lực và phước đức của phép niệm Phật nói ở trên thuộc về mặt kinh điển và tín niệm. Còn về phương diện lý giải khoa học. Khi chúng ta chí tâm, chí thành, chí thánh niệm Phật thì chúng ta sẽ phát huy hết năng lực của trí tuệ, tâm đại bi, sự dũng mãnh của chính chúng ta (Bi-Trí-Dũng). Đạt tới trạng thái này rồi thì ung dung tự tại, không còn lo sợ gì nữa (Vô hữu khủng bố) giống như sự “hành thâm” thực chứng Bát Nhã Ba-la-mật Đa Tâm Kinh của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Đó cũng là trạng thái Vô Ngại và Tự Tại của Chư Phật ẩn dụ chư Phật ngồi tòa sư tử.
Do những kết quả tốt lành nói trên mà chúng ta:
- Buổi tối nên niệm Phật.
- Trước khi đi ngủ nên niệm Phật cho đến khi nào đầu óc thanh thản để từ từ đi vào giấc ngủ.
- Sáng thức dậy nên niệm Phật, dù vài câu, bởi vì sau giấc ngủ dài đầu óc con người thường hôn trầm. Niệm Phật vào đầu sớm mai cũng là dấu hiệu bắt đầu một ngày mới tốt lành.
- Khi nào thấy buồn chán nên niệm Phật.
- Thấy mất tự tin nên niệm Phật.
- Thấy long xao xuyến nên niệm Phật.
- Thấy có thể bị cám dỗ nên niệm Phật.
- Thấy thời gian kéo dài, vô vị nên niệm Phật.
- Gặp rắc rối về pháp lý nên niệm Phật để bình tĩnh ứng phó.
- Bị ai chọc giận, công kích nên niệm Phật.
- Tại đám đông tụ họp, ăn nhậu, vui chơi, thấy người ta nói chuyện “vô duyên”, tào lao, nhảm nhí mất thì giờ, nên niệm Phật để không giây dưa vào chuyện vô ích.
- Các em khi vào thi, nên niệm Phật để đầu óc thanh thản, bình tĩnh. Thiếu bình tĩnh, quá lo âu, xao xuyến đưa đến việc không đọc kỹ câu hỏi, đề tài, tính tóan sai, lạc đề v.v..
- Đêm khuya thanh vắng một mình trên tàu, xe, trên sông nước nên niệm Phật.
- Khi bệnh tật, đau ốm nằm nhà thương nên niệm Phật để không mất tinh thần, không sợ chết. Càng rên la, càng mất tinh thần, càng chết sớm, làm khổ gia đình.
- Nếu niệm Phật cùng lúc lại quán sổ tức (theo dõi hơi thở) thì công năng rất lớn chẳng khác gì thiền định vậy.
Kết Luận:
Niệm Phật miễn phí, không phải trả tiền ( free) mà cũng không bị đóng thuế, đem lại tốt lành cho đời tại sao chúng ta không thử xem" (why not"). Xin quý vị, quý bạn mạnh dạn thực hành. Nếu thấy chẳng công hiệu gì cả thì bỏ đi cũng chẳng mất mát gì. Đức Phật cũng chẳng phiền trách hay trừng phạt bạn. Cuối cùng, xin thưa rằng như chúng ta đây- những con người gọi là trần tục, sống, thở hít không khí, gia đình đầy đủ và hưởng tất cả những lạc thú của kiếp người mà vẫn cảm thấy lo âu, xao xuyến, bất an và lo sợ ngày mai. Trong khi đó, hằng vài trăm ngàn, có khi hằng triệu tăng/ni trên khắp thế giới, sống đời âm thầm, đơn sơ, đạm bạc, không gia đinh, không của cải, không danh vọng, không quyền thế, không lạc thú trần gian như chúng ta…thế mà các vị lúc nào tâm hồn cũng thanh thản, cử chỉ dịu dàng, giới hạnh trang nghiêm, miệt mài đi tới mục đích cuối cùng: Giải thóat cho chính mình và cứu độ chúng sinh. Tại sao những vị này có thể “hy sinh” và sống đời cao thượng đến như thế"  Các ngài có gì bí mật chăng" Xin thưa qúy ngài chẳng có lọai “vũ khí” bí mật nào cả. Các ngài cũng chẳng có phép mầu hoặc sự che chở của bất cứ thần linh mầu nhiệm nào cả. Hành trang duy nhất mà các ngài mang theo là giáo lý của Đức Phật và phương tiện tiến tu là Thiền Định hoặc Tụng Kinh, Niệm Phật…điều mà tôi và quý bạn đã thấy rõ như ban ngày.
Không còn bàn cãi gì nữa. Tụng kinh niệm Phật công năng ghê gớm và lợi lạc có thể nhìn thấy. Còn như chuyện tu hành như thế nào, hành trì như thế nào, giới luật như thế nào, phát nguyện lớn như thế nào mà có thể đắc đạo, ngồi yên trong biển lửa, cắt xẻ thân thể mà không kêu than như Đức Phật thường nói trong nhiều bộ kinh…thì hàng sơ cơ, thô thiển như tôi hòan tòan không biết. Không biết mà nói bừa sẽ mang tội vọng ngữ. Để nghiên cứu thấu đáo hơn về uy lực của Pháp Môn Niệm Phật, quý vị, quý bạn có thể tham khảo: Cuốn sách nhỏ nhan đề Nam Mô A-Di-Đà Phật: Tông Chỉ Pháp Môn Tịnh Độ của Hòa Thượng Thích Trí Tịnh biên sọan năm 1956. Cuốn Niệm Phật Thập Yếu của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm biên sọan hết sức công phu và cuốn Kinh Niệm Phật Ba-la-mật cũng do Hòa Thượng Thích Thiền Tâm dịch ra Việt Ngữ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2001. Một Đời Vãng Sanh, Chấm Dứt Luân Hồi của HT. Tịnh Không xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2010.
Kính chúc quý vị,  quý bạn thành công. Thành công ở đây có nghĩa là An Vui và Tự Tại - một giá trị tinh thần to lớn không gì đối sánh được trên thế gian này. 
Đào Văn Bình
(California Tháng 8 năm  2554.PL – 2010.TL)
(1)   A Di Đà Kinh Yếu Giải của Hòa Thượng Tuệ Nhuận.
(2)   Kinh Niệm Phật Ba-la-mật.
(3) Một Đời Vãng Sanh Chấm Dứt Luân Hồi
Cước chú: Quý vị nào muốn đọc thêm những bài nghiên cứu khác về Phật Giáo của cùng tác giả xin vào Weblog Đào Văn Bình tại địa chỉ: http://daovanbinh.cattien.us

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.