Hôm nay,  

Dân Tỵ Nạn Và Cuộc Bầu Cử Tổng Thống Mỹ, Bài # 4: Câu Chuyện An Sinh – Y Tế

14/10/200800:00:00(Xem: 9647)

<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /> 

 

Vũ Linh

 

...Sự thật là cả hai ông, sẽ chẳng ông nào dám cắt gì hết...

 

Đối với một số lớn cử tri, đặc biệt là trong giới lớn tuổi và giới nghèo, ưu tư số một không phải là thuế lợi tức vì đa số không phải đóng thuế đó. Người ta ước tính có gần 40% dân Mỹ không phải đóng thuế lợi tức gì hết, tuy vẫn phải đóng nhiều loại thuế khác. Một phần khá lớn dân tỵ nạn chúng ta nằm trong khối 40% này.

 

Ưu tư số một cho thành phần này vẫn là những quyền lợi xã hội, tức là các hình thức giúp đỡ trực tiếp của Nhà Nước, như lương tối thiểu, trợ cấp an sinh, trợ cấp thất nghiệp, tiền già, tiền thuốc, bảo hiểm sức khỏe, …

 

Trên căn bản lý thuyết, Cộng Hòa là đảng của tinh thần tự lực cánh sinh, mỗi người có trách nhiệm lo lấy cho gia đình. Nhà Nước là phương tiện cuối cùng, một thứ mạng lưới an toàn (safety net), chỉ bảo đảm người dân được bảo vệ ở mức thiết yếu mà thôi.

 

Trong khi đó, Dân Chủ chủ trương Nhà Nước cần can thiệp mạnh hơn, bằng luật lệ khắt khe hơn để bảo đảm người dân “thấp cổ bé họng” được bảo vệ kỹ. Nhà Nước cũng có bổn phận trợ cấp tối đa cho dân nghèo bằng tiền thuế thu của mấy ông nhà giàu.

 

Trong cuộc tranh luận ngày 6 tháng 10 vừa qua, triết lý của hai đảng được thể hiện rõ ràng khi hai ông McCain và Obama trả lời câu hỏi “vấn đề bảo hiểm y tế là vấn đề trách nhiệm hay quyền lợi"” Ông McCain trả lời đó là trách nhiệm, trách nhiệm của Nhà Nước phải lo cho dân, trách nhiệm của các công ty phải lo cho nhân viên, và trách nhiệm của những chủ gia đình phải lo cho người thân. Ông Obama thì trả lời đó là vấn đề quyền lợi. Quyền lợi của người dân có quyền đòi hỏi từ Nhà Nước, của nhân công đòi hỏi chủ nhân, của con cái đòi hỏi cha mẹ.

 

Nói nôm na thì đó là khác biệt giữa những người có tính tự lập muốn lo lấy thân, và những người vì lý do nào đó không tự lo được mà đòi hỏi Nhà Nước phải lo cho mình.

 

Ở đây, phải khẳng định ngay là những trợ cấp này đều là những “cấm địa” trên phương diện chính trị. Không chính trị gia nào, dù là Dân Chủ hay Cộng Hòa dám bén mảng đến vùng đất cấm, lên tiếng đòi cắt bỏ bất cứ một phần nào. Làm như vậy chỉ là tự sát chính trị thôi.

 

Trong mấy cuộc tranh luận giữa hai ứng viên tổng thống, khi bị hỏi về việc phải cắt chi tiêu để cứu vãn kinh tế, cả hai ứng viên đều nói loanh quanh mà không ai dám nói thẳng sẽ cắt những gì. Như vậy bà con chúng ta có quyền yên tâm sẽ không có quyền lợi nào bị cắt hết!

 

Sự khác biệt chính giữa hai phe Dân Chủ và Cộng Hòa chỉ là vấn đề tăng nhiều hay tăng ít thôi, chứ không ai dám cắt.

 

Với bài toán của cả hai ông McCain và Obama, tiền Nhà Nước thu vào sẽ giảm nhiều vì cắt thuế, nhưng tiền Nhà Nước chi cho các trợ cấp đủ loại sẽ vẫn tăng mạnh.

 

Đừng ai hỏi hai ông đó làm sao làm được chuyện này. Cả hai ông, chẳng ông nào biết làm tính cộng trừ cả. Không có chính trị gia nào biết làm toán hết. Nếu biết làm thì hết dám hứa và như vậy nên chọn nghề khác hơn là đi làm chính khách.

 

Đó là nói chung. Nói riêng cho từng vị thì ông McCain dĩ nhiên có phần keo kiệt hơn ông Obama, là người hết sức rộng lượng, hứa đủ mọi thứ cho tất cả mọi người. Ai cũng có phần. Thực tế mai mốt có được hay không là chuyện khác.

 

VẤN ĐỀ LƯƠNG

 

Với thành phần lao động không có tay nghề, đang làm lương tối thiểu, ông Obama hứa sẽ tăng mức lương đó từ 6,5 đô một giờ hiện nay lên ngay 9,5 đô, tức là tăng gần 50%. Nếu quý vị đang làm việc và bất thần được tăng lương 50% thì quả đúng là điều đáng hồ hởi. Nhưng không phải ai cũng được như vậy.

 

Những công ty thuê nhân viên với mức lương tối thiểu thường là công ty hay nhà buôn lẻ, nhỏ, không cần nhân viên chuyên gia, mà chỉ cần người không có tay nghề, làm những việc có thể học rất dễ dàng, mau chóng, như chạy bàn nhà hàng, bán chạp phô, lau chùi quét dọn, làm vườn cắt cỏ. Nếu họ phải tăng lương nhân viên của họ lên 50% thì có nhiều hy vọng họ sẽ hoặc là không thuê thêm nhân viên, hoặc là sa thải bớt nhân viên đang làm. Họ sẽ thu nhỏ mức kinh doanh của họ. Hay là thuê nhân viên trong đám di dân ở lậu.

 

Rất nhiều người dân tỵ nạn chúng ta sẽ phải cân nhắc lại tình trạng của mình trước khi hoan hô đề nghị tăng lương tối thiểu của Obama. Sẽ có người hưởng lợi, nhưng cũng sẽ có không ít người mất việc, hay khó kiếm việc hơn. Các ông bà chủ tiệm buôn nhỏ sẽ tính lại xem bầu cho Obama thì sẽ tốn thêm bao nhiêu lương cho nhân viên. Vì vấn đề không chỉ có mức lương tối thiếu ấy, nó còn là căn bản để từ đó tính thêm nhiều khoản phúc lợi xã hội khác mà họ phải thanh toán cho nhân viên.

 

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC

 

Đối với vấn đề giáo dục, ông McCain chủ trương bắt các thầy cô phải chịu trách nhiệm về khả năng học vấn của các học trò. Nhà Nước, qua Bộ Giáo Dục, sẽ thiết lập một số tiêu chuẩn, tính theo sự thành công hay thất bại của học sinh, để lượng giá thầy giáo. Thầy cô dạy dở sẽ phải “đi kiếm việc khác” theo như lời của ông. Ông cũng chủ trương cấp phiếu (vouchers) trị giá 5.000 đô cho mỗi học sinh tiểu và trung học để trang trải phần nào chi phí nếu mấy em này học trường tư. Nói cách khác, đây là hình thức trợ cấp cho những ai muốn con học trường tư vì trường công quá bết bát, hay thiếu an toàn.

 

Trong khi đó ông Obama chủ trương cũng sẽ lượng giá thầy giáo, nhưng dựa theo tiêu chuẩn do chính các thầy giáo, qua Nghiệp Đoàn Giáo Chức, quyết định. Việc lượng giá giáo chức sẽ được làm theo chính những tiêu chuẩn của họ. Và ít có hy vọng họ sẽ đặt ra tiêu chuẩn khó khăn đưa đến sa thải đồng nghiệp.

 

Và ông chống lại việc cấp phiếu cho học sinh học trường tư. Với lý luận cung cấp phiếu sẽ rất bất lợi cho các giáo chức vì chắc chắn sẽ có rất nhiều phụ huynh dùng phiếu để cho con học trường tư. Dần dần trường công sẽ mất học sinh, đưa đến chuyện giáo chức trường công mất việc. Những người giỏi có thể kiếm việc tại các trường tư, nhưng đa số dở sẽ thất nghiệp nặng.

 

Dĩ nhiên lập trường của Obama được Nghiệp Đoàn Giáo Chức ủng hộ mạnh mẽ!

 

Đối với nhiều phụ huynh, các biện pháp của ông Obama chỉ duy trì tình trạng bết bát hiện nay của các trường công. Và bị thiệt thòi là những gia đình nghèo hay trung lưu, không đủ tiền cho con học trường tư, bắt buộc phải để con học những trường công, gặp thầy cô dạy dở cũng phải ráng chịu. Trong khi nhà giàu có tiền cho con học trường tư.

 

Kết quả lâu dài là con nhà giàu được đào tạo khá hơn, ra đời thành công hơn, tiếp tục giàu có. Con nhà nghèo học trường dở hơn, ra đời gặp khó khăn hơn, tiếp tục nghèo.

 

Vấn đề này cũng nói lên tính giả dối của mấy chính khách Dân Chủ. Trong khi họ bác bỏ các đề nghị cải cách của phe Cộng Hòa và ca ngợi trường công thì chính con cái của họ đều học trường tư đắt tiền! Từ các cựu TT Carter, Clinton, đến các ông Obama và Biden. Đó là một cách rõ ràng nói lên việc mấy ông bà Dân Chủ không tin tưởng vào hệ thống trường công mà không dám làm gì phật lòng Nghiệp Đoàn Giáo Chức rất lớn, kiểm soát mấy chục triệu phiếu bầu cử tổng thống.

 

Con ông McCain cũng vậy, cũng học trường tư. Chỉ có bà Palin, ứng viên PTT của Cộng Hòa là cho tất cả các con học trường công hết. Bà ta mới thật là người bình dân và thân dân, trong cách sống bình thường trước khi trở thành ngôi sao và bị soi mói.

 

Đối với dân tỵ nạn chúng ta, vấn đề này không mấy quan trọng. Con em tỵ nạn phần lớn học rất giỏi, rất siêng năng, lại được sự kềm giữ kỹ càng của phụ huynh, nên phần lớn thành đạt, dù học trường công cũng vậy. Dĩ nhiên là nếu có phương tiện học trường tư thì vẫn khá hơn, và có nhiều hy vọng ra đời thành công hơn.

 

VẤN ĐỀ TIỀN GIÀ

 

Vấn đề tiền già có lẽ là vấn đề gai góc nhất.

 

Tiền già là cách nói nôm na của dân tỵ nạn chúng ta để chỉ Social Security Income (SSI). Hình thức lợi tức này được TT Roosevelt khai sinh ra cách đây hơn nửa thế kỷ.

 

Mỗi người đi làm đều bị bắt buộc phải trích ra 6,5% lương, cộng với phần đóng góp tương tự 6,5% của chủ nhân để bỏ vào quỹ an sinh xã hội. Đến khi chúng ta đến tuổi về hưu thì sẽ được lãnh một số tiền, được chiết tính theo mức lợi tức, số năm làm việc và số tuổi.

 

Nói cách khác, Nhà Nước không tin tưởng là chúng ta sẽ biết tự để dành tiền cho ngày về hưu, nên tự tiện giữ lại dùm chúng ta, và trả lại cho chúng ta khi chúng ta về hưu. Tuổi về hưu hiện nay là 65, hay 66, hay 67 tuổi, tùy năm sinh của mỗi người (trước đây là 65, nhưng sau đó, lại có luật mới gia hạn, kéo dài dần).

 

Trên nguyên tắc, đây là một chương trình rất hay. Thực tế có hơi khác.

 

Số tiền ta đóng góp được Nhà Nước thu vào, đầu tư vào công khố phiếu (giấy nợ của Nhà Nước) với mức lãi suất trung bình là hơn 1% một chút. Với mức lãi kẹo kéo như vậy và với số người già bắt đầu bước vào tuổi lãnh tiền già càng ngày càng nhiều, ngân khoản trong cái quỹ an sinh này ngày một vơi đi, mau hơn dự tính rất nhiều. Nhiều người bi quan tính rằng ngân quỹ này có thể sẽ cạn khô trong vòng 40 năm nữa. Tức là con cháu chúng ta tha hồ mà đóng tiền bây giờ để rồi khi về hưu sẽ chẳng lãnh được đồng nào hết!

 

Dĩ nhiên là đã đến lúc ta phải tìm cách thay đổi nếu còn nghĩ đến đám con cháu. Nhưng cái khổ là đây là một trong những vấn đề nhức răng nhất. Mười người một trăm ý, không ai đồng ý với ai, và cũng không ai dám làm mạnh vì là vấn đề túi tiền của quần chúng, tức là của cử tri đi bầu.

 

Phe Cộng Hòa, do TT Bush chủ xướng, với sự đồng ý phần nào của ứng viên McCain, thì muốn tư hữu hoá phần nào số tiền chúng ta đóng góp. Thay vì tất cả số tiền đóng góp mỗi tháng được Nhà Nước giữ và đầu tư hết vào công khố phiếu với lãi suất èo uột 1%, thì chúng ta sẽ có quyền đầu tư một phần nhỏ - có thể là một phần tư hay một phần năm- vào thị trường chứng khoán, mua cổ phần công ty (corporate stocks) hay cổ phần quỹ hỗ tương (mutual fund shares), sinh lời cao hơn.

 

Đây là giải pháp có lời nhiều hơn nhưng cũng nhiều rủi ro hơn, nhất là trong ngắn hạn. Ngắn hạn, như ta đang thấy hiện nay, thị trường cổ phiếu có thể trồi sụt rất mạnh, có thể tới 5% hay 10% trong vài ngày. Nhưng dài hạn khoảng hai ba chục năm thì bao giờ cũng lãi nhiều hơn công khố phiếu.

 

Đề nghị của TT Bush được đưa ra hồi ông mới nhậm chức, nhưng chẳng may lại rớt đúng vào lúc thị trường chứng khoán xụp đổ hồi năm 2000, nên không được hậu thuẫn, và chìm vào lãng quên.

 

Bây giờ, ông McCain, tuy ủng hộ giải pháp này, nhưng cũng không may gặp đúng lúc nước Mỹ đang bị khủng hoảng tài chánh, thị trường chứng khoán rối loạn, nên cũng không dám bàn đến nữa!

 

Phe Dân Chủ chống lại việc tư hữu hóa, dù chỉ một phần. Cấp tiến là phe lúc nào cũng tin tưởng ở Nhà Nước nhiều hơn, do đó lúc nào cũng nghĩ để Nhà Nước lo thì vẫn hơn.

 

Giải pháp của họ là muốn quỹ tiền già nếu thiếu tiền thì chỉ việc tăng tiền đóng góp của dân chúng, cũng như triển hạn tuổi về hưu như đã làm trước đây. Có nhiều chính khách Dân Chủ đã nói đến chuyện triển hạn tuổi về hưu lên đến 70 hay 72 tuổi. Bây giờ là mùa tranh cử nên dĩ nhiên giải pháp không hấp dẫn này cũng bị lờ luôn.

 

Rốt cuộc, cả hai bên Cộng Hòa và Dân Chủ lẳng lặng đồng ý không nên nói nhiều về cái gân gà ấy. Nhưng rồi cũng sẽ đến lúc phải trực diện với vấn đề, không sớm thì muộn. Tùy sự can đảm của các chính trị gia.

 

Một TT McCain chắc sẽ đề nghị tư hữu hóa một phần quỹ an sinh. Nhưng trong tình trạng tranh cử hiện nay, quốc hội có nhiều triển vọng do đảng Dân Chủ nắm nên ông ít có hy vọng thực hiện được ý định. Và như vậy, chưa chắc sẽ có được một giải pháp nào ra đời dưới triều đại McCain. Một TT Obama có nhiều hy vọng thực hiện được ý định với  phe Dân Chủ nắm đa số trong quốc hội. Nếu Obama đắc cử tổng thống, chúng ta có quyền đóng tiền mỗi tháng nhiều hơn, hay đi cầy thêm vài năm nữa, đến tuổi thất thập không chừng, mới được lãnh tiền già. Khi đó có thấy khổ thì ông Obama đã mãn nhiệm rồi. Huề!

 

VẤN ĐỀ Y TẾ

 

Bảo hiểm y tế là vấn đề sẽ được tranh cãi mạnh trong tương lai. Đây cũng là một vấn đề cực kỳ phức tạp và cả hai phe Dân Chủ và Cộng Hòa đều đưa ra khá nhiều đề nghị chi tiết cải đổi chế độ y tế và bảo hiểm sức khỏe hiện hữu. Chúng ta không thể vào chi tiết, mà chỉ có thể tóm lược vài điểm quan trọng nhất.

 

Ông McCain chủ trương điều chỉnh đây đó, như giản dị hóa thủ tục, điện toán hoá các hồ sơ, hoá đơn, v.v... Ngoài ra, để giúp các gia đình nghèo và trung lưu, ông sẽ cho khấu trừ thuế, mỗi người 2.500 đô, hay mỗi gia đình 5,000 đô để giúp mua bảo hiểm sức khỏe. Phí tổn sẽ do các công ty chịu một cách gián tiếp. Các công ty từ trước đến giờ phải chịu một phần chi phí mua bảo hiểm cho nhân viên, coi như chi phí điều hành công ty và được trừ thuế. Theo đề nghị của ông McCain, các công ty sẽ không còn được coi đây là chi phí miễn thuế nữa. Có nghĩa là các công ty sẽ phải đóng thuế cao hơn và Nhà Nước sẽ lấy số bội thu  đó để trả lại cho dân dưới hình thức khấu trừ thuế nêu trên.

 

Ông Obama thì muốn cả nước có bảo hiểm. Ông cũng sẽ tìm cách tinh giản hóa thủ tục hành chánh trong ngành bảo hiểm y tế, cũng như trong các thủ tục Medicare và Medicaid. Nhờ đó ông cho là sẽ cắt giảm được chi phí bảo hiểm ít ra khoảng hai trăm tỷ đô một năm, và mỗi gia đình sẽ tiết kiệm được khoảng 2.500 đô tiền mua bảo hiểm mỗi năm. Chi phí bảo hiểm hạ thấp như vậy sẽ giúp cả nước có bảo hiểm. Ông cũng sẽ ra luật cấm hãng bảo hiểm không được từ khước những người có bệnh từ trước (preconditions).

 

Cũng trong mục đích cho cả nước có bảo hiểm, ông sẽ cho các công ty hay hãng nhỏ khấu trừ thuế nếu chịu mua bảo hiểm y tế cho nhân viên. Ngược lại công ty nào không có bảo hiểm toàn diện cho nhân viên sẽ bị đánh thuế phụ trội đặc biệt, tuy ông chưa nói rõ bao nhiêu.

 

Cả hai chương trình đều có lỗ hổng lớn.

 

Đề nghị khấu trừ thuế của ông McCain chỉ giúp những ai đang phải đóng thuế thôi. Phần lớn khối 40% dân không đóng thuế sẽ chẳng được lợi gì. Dù sao thì phần lớn khối này đều đã có Medicare hay Medicaid rồi. Tuy nhiên, một số không ít những gia đình trung lưu đang phải đóng thuế dưới 5.000 đô một năm dĩ nhiên sẽ khỏi phải đóng thuế nữa nếu dùng tiền này để mua bảo hiểm.

 

Đề nghị của ông Obama trên lý thuyết có thể giải quyết được tình trạng 46 triệu dân Mỹ hiện không có bảo hiểm sức khỏe, nhưng lại cũng tương tự như các chương trình khác của ông: cộng trừ nhân chia không ổn!

 

Con số tiết kiệm ông đưa ra chỉ là kết quả của việc xào nấu thống kê và hy vọng hơi viễn vông. Tất cả các tổng thống Dân Chủ, từ Johnson qua Carter đến Clinton đều hứa hẹn tinh giản hoá guồng máy hành chánh để tiết kiệm công quỹ, nhưng chưa ông nào làm gì được hết. Bây giờ, ông vua hứa hẹn Obama cũng hứa nữa. Và dĩ nhiên cũng chẳng có gì bảo đảm ông sẽ thực hiện được lời hứa.

 

Chương trình bảo hiểm toàn diện cho cả nước của ông còn có nguy cơ biến chế độ y tế Mỹ giống như chế độ y tế của các nước Âu Châu hay Canada. Ở đây, cả nước được bảo hiểm, không phải trả tiền gì, hay trả rất ít khi phải đi bác sĩ hay nhà thương. Nhưng bù lại, chỉ tiện lợi cho các trường hợp cảm cúm nhẹ. Còn nếu bệnh nặng cần vào nhà thương nằm hay mổ xẻ thì quả là trần ai. Phải qua đủ thứ thủ tục, được kiểm nhận bởi một công chức của Bộ Y Tế, rồi xếp hàng chờ tới phiên mình. Chờ đợi hàng tháng là chuyện thường, có khi cả năm cũng không lạ.

 

Tiểu bang cấp tiến nhất Mỹ, Massachusetts, đã có bảo hiểm toàn diện cho cả tiểu bang từ mấy năm nay. Nhưng chương trình này đã trở thành mô thức điển hình của những gì không nên làm. Chương trình đang lỗ cả trăm triệu mỗi năm, và chính quyền tiểu bang đang bù đầu tìm cách sửa đổi.

 

Phần lớn dân tỵ nạn nằm trong diện được lãnh Medicaid, Medicare. Thành phần trẻ hơn đang đi làm thì đã có bảo hiểm đầy đủ. Cũng có một số đi làm nhưng không có bảo hiểm. Nếu hiện giờ đang phải đóng thuế, thì kế hoạch của McCain có thể giúp họ mua bảo hiểm nhờ miễn thuế tới 5.000 đô.

 

*

 

Đại đa số dân tỵ nạn chúng ta sống nhờ các trợ cấp, dưới hình thức này hay hình thức khác. Nhiều người lo ngại ông Cộng Hòa McCain sẽ cắt giảm nhiều thứ, trong khi hy vọng ông Dân Chủ Obama sẽ cho thêm đủ thứ. Sự thật là cả hai ông, sẽ chẳng ông nào dám cắt gì hết.

 

Còn cho thêm thì ông McCain hứa cho ít hơn ông Obama. Nhưng vấn đề là các hứa hẹn của ông Obama là thực hay chỉ là bánh vẽ. Ngay cả báo “phe ta” New York Times cũng phải nhìn nhận các giải pháp của ông Obama nghe thì “mát ruột” hơn, nhưng lại có tính cách mơ ước viễn vông (wishful thinking) hơi nhiều. (11–10-08)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nelson Mandela (1918-2013), quán quân Giải Nobel Hòa Bình năm 1993, nhà hoạt động chống chế độ phân biệt chủng tộc bị tù 27 năm, và là vị tổng thống người da đen đầu tiên được bầu trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của nước Nam Phi vào năm 1994, đã từng nói rằng, “Giáo dục là vũ khí có sức mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” Hơn ai hết, Nelson Mandela là người không những hiểu rõ giá trị thực sự của nền giáo dục mà còn áp dụng kiến thức đó trong việc làm thay đổi đất nước và dân tộc Nam Phi của ông. Ông đã dẫn dắt Nam Phi từ một quốc gia ngập chìm trong bóng tối của thù hận, phân hóa và lạc hậu để vươn mình lên trong ánh sáng của đoàn kết, hòa bình và phát triển.
Hoa Kỳ đã tấn công Iran. Chỉ vài ngày sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump gợi ý rằng có thể trì hoãn bất kỳ hành động quân sự nào của Mỹ trong nhiều tuần, ông tuyên bố vào ngày 21/6 rằng máy bay Mỹ đã tấn công ba địa điểm hạt nhân của Iran, bao gồm cả cơ sở bị chôn sâu ở Fordow. Các quan chức Iran xác nhận rằng các cuộc không kích đã diễn ra. Mặc dù ông Trump khẳng định rằng các địa điểm này đã bị "xóa sổ", nhưng vẫn chưa rõ các cuộc tấn công đã gây ra thiệt hại gì.
Jena, Louisiana – một thị trấn 4.000 dân lọt thỏm giữa rừng thông – nơi bảng hiệu đầu làng ca ngợi đội bóng nữ vô địch của bang, nhưng cách đó chỉ ba dặm, sau hàng rào kẽm gai và lời Kinh Thánh treo lủng lẳng, là Trại Giam ICE đồ sộ - do GEO Group điều hành. Nơi đây hiện giam giữ hơn 1000 người – phần lớn chưa từng bị kết tội hình sự, nhiều người chỉ là dân đang xin tị nạn hợp pháp, số còn lại chưa kịp hiểu vì sao mình bị bắt...
Tại sao Trump lại vội vàng ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và chính sách mới như vậy?AI: Có hai lý do.Đầu tiên, tổng thống vội vàng vì nếu có bất kỳ điều gì sai trái xảy ra vào đầu nhiệm kỳ, ông có thể đổ lỗi cho chính quyền trước và nhà nước (những người làm việc cho ông). Nếu để lâu, những điều sai trái sẽ là trách nhiệm của ông, và Trump không thích chịu trách nhiệm.Thứ hai, ông biết trong hai năm nữa, đảng Cộng hòa sẽ mất quyền kiểm soát Hạ viện trong cuộc bầu cử quốc hội và ông sẽ trở thành què quặt. Ông cần phải hoàn thành mọi việc ngay bây giờ. Ông muốn tập trung vào các doanh nghiệp của mình trong hai năm cuối nhiệm kỳ tổng thống,
Bao dung – một từ nghe thật thanh thoát. Âm tiết của nó cũng thật bình dị, thốt ra từ thanh quản nhẹ nhàng không cần uốn nắn, như cỏ mọc từ đất, như mưa từ trời. Vậy mà ngày nay, trong một xã hội đứng đầu thế giới về tự do, về quyền con người, hai từ “bao dung” bỗng dưng khó tìm. Chính trong tháng Sáu này, tháng gọi là Pride Month, những câu chuyện thương tâm về cộng đồng LGBTQ+ bị chìm trong bóng tối. Có lẽ trong sáu tháng qua, nước Mỹ có quá nhiều những phát ngôn, biến cố, thay đổi mà đối với truyền thông, đó là điều cần phải nói, và nói mỗi ngày. Hoặc cũng có lẽ, trong một chính quyền đang nỗ lực bác bỏ DEI, đóng chặt cửa với di dân, thì truyền thông cũng không dám đào sâu về những gì thuộc về cộng đồng yếu thế. Cho dù, đó là một án mạng lấy đi cuộc sống một con người, hoặc chấm dứt những nguyên tắc vốn đã được nhìn nhận hàng thập kỷ.
“Nơi nào người ta bắt đầu đốt sách, nơi đó người ta rồi cũng sẽ thiêu người.”— Heinrich Heine. Câu nói nổi tiếng từ thế kỷ XIX của thi sĩ Heinrich Heine, tưởng chỉ là tiếng vọng u ám của bóng ma lịch sử nhưng hôm nay, giữa thế kỷ XXI, lời cảnh báo ấy lại trở nên rúng động – ngay trên đất nước từng được xem là ngọn hải đăng của tự do học thuật. Oái oăm thay, những dấu hiệu đầu tiên của bóng tối không phát xuất từ một chế độ độc tài phương Đông, mà từ chính nước Mỹ – xứ sở từng được xem là ngọn hải đăng của giáo dục tự do.
Donald Trump không đội vương miện, nhưng ông đã luyện được cách bắt cả một đảng chính trị quỳ gối. Và cũng như các ông vua cổ đại, ông không cần luật – ông chính là luật. Nếu Toà Tối cao chống đối, ông sẽ gọi đó là “phản quốc.” Nếu truyền thông phản biện, ông gọi đó là “tin giả.” Nếu có cuộc bầu cử mà ông thua, ông sẽ bảo đó là “gian lận.” Và nếu có ai dám nói điều gì khác, ông sẽ gửi quân đội tới – như ông đã làm ở Los Angeles, để dạy cho đám biểu tình “hỗn xược” ấy một bài học về dân chủ... bằng đạn cao su và lựu đạn cay.
Ryanne Mena là một nhà báo đưa tin về tội phạm và an toàn công cộng cho Southern California News Group. Thứ Sáu, 6/6, ngày đầu tiên diễn ra cuộc biểu tình phản đối chính sách nhập cư của chính quyền Trump, chống lại các cuộc bố ráp của Cảnh Sát Di Trú (ICE), Mena đã có mặt ngay trên đường phố Los Angeles, bên ngoài Trung tâm giam giữ Metropolitan,L.A. Tại đây, cô bị trúng đạn hơi cay ở đùi bên trái Ngày kế tiếp, nữ phóng viên này bị trúng đạn cao su của các đặc vụ liên bang bắn vào đầu, bên phải, cách tai của cô chỉ khoảng 1 inch. Những tấm ảnh Mena và các đồng nghiệp khác bị thương lan tỏa khắp Instagram, Twitter.
Giữa lúc Tòa Bạch Ốc đang tìm mọi cách cứu vớt mối quan hệ Trump-Musk thì các cựu quan chức an ninh y tế cho biết chính quyền Trump hủy bỏ $766 triệu trong các hợp đồng nghiên cứu phát triển vaccine mRNA để chống lại các loại đại dịch cúm. Với họ, đây là đòn giáng mới nhất vào quốc phòng quốc gia. Họ cảnh báo rằng Hoa Kỳ có thể phải nhờ đến lòng trắc ẩn của các quốc gia khác trong đại dịch tiếp theo. ABC News dẫn lời Beth Cameron, cố vấn cao cấp của Trung tâm Đại dịch thuộc Brown University Pandemic Center, và là cựu giám đốc Hội đồng an ninh quốc gia Tòa Bạch Ốc, cho biết: “Các hành động của chính quyền đang làm suy yếu khả năng phòng ngừa của chúng ta đối với các mối đe dọa sinh học. Việc hủy bỏ khoản đầu tư này là một tín hiệu cho thấy chúng ta đang thay đổi lập trường về công tác chuẩn bị ứng phó với đại dịch. Và điều đó không tốt cho người dân Mỹ.”
Ăn mặc đẹp là nói về thời trang. Lịch sử “thời trang cao cấp” thuộc về truyền thống của Pháp: Haute couture từ thế kỷ 17. Đến thế kỷ 19, ngành thời trang cao cấp đã phát triển thành một phương tiện kích thích tăng trưởng trong nền kinh tế Pháp. Trong thời gian này, các nhà tạo mốt như Dior, Chanel và Balenciaga đã được thành lập. Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, ngành thời trang cao cấp ở Pháp đã mất đi phần lớn sự huyền bí của mình và phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các thị trường quốc tế khác, đặc biệt là ở Ý và Hoa Kỳ. Sự thành công của bối cảnh thời trang quốc tế và tiềm năng lợi nhuận đã thu hút sự chú ý của các tập đoàn hàng xa xỉ, được tiên phong bởi ông trùm kinh doanh người Pháp và người sáng lập LVMH Bernard Arnault vào năm 1987. Ngày nay, các tập đoàn này vẫn tiếp tục duy trì hoạt động lịch sử của các nhà thời trang xa xỉ thông qua việc bổ nhiệm các giám đốc sáng tạo, những người diễn giải và chỉ đạo triết lý thiết kế của thương hiệu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.