Hôm nay,  

Những Hình Ảnh Rơi Lệ Vì Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

31/07/200800:00:00(Xem: 11045)
Người ta vốn dễ quên, quên qúa khứ, quên bạn hữu, quên tình đồng đội, quên người thân, có người mang tính  dị thường quên cả tình mẫu tử ruột thịt. Nhưng cách chung, là con người, một loài động vật trên mọi động vật, động vật thượng đẳng, có lý trí, tin có hồn thiêng bất tử “ Linh ư vạn vật”. Thì những biến cố trong cuộc đời, thật khó quên, dù có muốn quên. Nhất là có một nguyên nhân nào đó, do sự tình cờ, ngẫu nhiên nhìn thấy, gặp được, thì tất cả những diễn tiến của qúa khứ lại quay trở lại trong tâm tưởng, thật chậm, thật rõ nét, không thiếu một chi tiết nào.

Nhất là những người đã phải lìa xa nơi chôn rau cắt rốn của mình, vì một hoàn cảnh chẳng đặng đừng. Như hoàn cảnh của những người Việt Nam tỵ nạn phải bỏ nước ra đi “ phải bỏ nước ra đi vì chế độc độc tài CSVN”; lý do thật bất khả kháng, không còn phương thế nào khác hơn. Sau ngày 30-04-1975, ai cũng muốn rời khỏi nơi chôn rau cắt rốn của mình. Thảm trạng đó kéo dài không chỉ trong một thập niên, mà kéo dài mãi cho đến nay đã sau ba thập niên. Người trong nước vẫn muốn tìm cách ra đi, nhưng hiện nay không phải là vượt biên, vượt biển, mà là đi bằng những ngõ ngách: du học, lao động, kết hôn, hoặc mua bán trao đổi trá hình như thời còn nô lệ, thuộc địa, thủa thế kỷ 17,18,19; buôn bán lao nô, nô lệ lao động, nô lệ tình dục. Thế kỷ hiện tại quen gọi là: “ xuất cảng lao động”, nói nôm na là bán sức lao động của người nghèo, người nghèo kiếm cơm cháo sống cầm hơi, nhà nước thâu vào được ngoại tệ. Đây đúng là đỉnh cao trí tuệ của Đảng CSVN sau 70 có mặt tại đất nước này, với trên hai mươi năm cai trị ở miền Bắc và 33 năm cai trị cả đất nước. Qua sử sách của Việt Nam, thì chưa có thời đại nào bệ rạc cho dân tộc Việt bằng cái thời Đảng Cộng Sản tự đứng ra cướp chánh quyền, rồi đặt cả dân tộc Việt dưới sự cai trị độc tài, hà khắc với những mưu mô lừa đảo, ăn gian nói dối đến nỗi không thể nào tìm ra được ở trên thế giới này những mô hình, những chế độ, có mưu mô thâm hiểm và lừa đảo hơn người Cộng Sản Việt Nam.

Người Việt vẫn còn tìm cách ra đi bằng đủ mọi hình thức, miễn sao tránh được cái đảng cùi hủi và nghẻ lở hiện nay. Nhưng dù có xa quê hương bằng cách nào đi nữa, thì quê hương vẫn mãi ở trong lòng họ. Nhất là những người đã sống một thời ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Những người đã một thời tôn vinh lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của miền Nam Việt Nam. Những thế hệ thanh niên miền Nam đã từng đem thân mình để bảo vệ màu cờ, bảo vệ  mảnh đất của miền Nam Tự Do, và xác thân họ đã nằm xuống để bảo vệ lá cờ vàng ba sọc đỏ. Đã có đến nửa triệu xác thân thanh niên thanh nữ của miền Nam Việt Nam được phủ màu cờ này. Và có đến hàng triệu những thương binh VNCH bị thương tật vì chiến đấu cho lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, hầu như không một gia đình ở trong Nam Việt Nam nào, không có liên hệ vì đã có, chồng, cha, con, cháu chết, bị mất tích, hay bị thương vì lá cờ này.

Lá cờ của các thế hệ trẻ Nam Việt Nam từ sau năm 1954, mà vào mỗi sáng thứ hai hành tuần họ đã nghiêm chỉnh đứng chào, và hát Quốc Ca. Nhất là ở các quân trường, mỗi buổi sáng thứ hai là như một kỳ đại lễ, với quân phục thẳng nếp, giầy đen phải thật bóng, tay bồng súng trịnh trọng để chào Quốc Kỳ. Những ấn tượng đó thật là khó quên đối với các thế hệ trưởng thành ở trong Nam Việt Nam. Hiện nay qúa khứ đó đã đi vào dĩ vãng trên 30 năm. Nhưng mỗi khi nhìn thấy bóng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, xuất hiện bất cứ ở nơi đâu, lòng người lại xao xuyến hẳn lên. Đó là chưa nói đến những Quân Cán Chính và dân chúng của miền Nam đã can dự, đã hy sinh và còn mang thương tích hay đã nằm xuống vì  lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.

Từ Quảng Trị, An Lộc, Đắc tô, những trận đánh đẫm máu, để chiếm lại thành, lại đất, để trương lại lá cờ trên vùng đất mới dành lại được từ  tay Việt Cộng vừa chiếm. Người dân của miền Nam từ Quân cho đến dân, có lẽ không ai quên được bản nhạc: “ Cờ bay cờ bay, oai hùng trên thành phố thân yêu . . . .” Khi Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đánh chiếm lại được Quảng Trị, bị Cộng Quân chiếm. Là những quân, dân, những thân nhân của các tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa, có dịp đến các nhà quàng, nhà tẩm niệm của các nghĩa trang Quân Đội các Quân Khu, đã nhìn tận mắt những hàng quan tài nằm ngang, dài thẳng tắp, được phủ lá Quốc Kỳ nền vàng ba sọc đỏ, vào những thời gian cao điểm của chiến tranh Việt Nam.

Chính vì vậy, khi theo dõi trên các màn ảnh nhỏ, qua các phương tiện truyền thông, truyền hình, Internet ngày Đại Hội Giới Trẻ tại Sydney 17-07-2008, với rừng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Và đặc biệt khi Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, được đón tiếp  nồng nhiệt trên một du thuyền; nơi đây các bạn trẻ đại diện cho các châu lục được đến ra mắt và chào thăm vị Giáo Hòang. Một bạn trẻ Việt Nam Phạm Vũ Anh Dũng, 23 tuổi, kỹ sư điện tóan, trên cổ có choàng một lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, đến bắt tay vị Giáo Hoàng và kể cho Ngài nghe về đời sống của người tỵ nạn Việt Nam. Sau đó anh đã đưa lá cờ đang choàng trên cổ xin ĐGH chúc lành, và trao tặng Ngài, ĐGH đã nhận lấy lá Quốc Kỳ  biểu hiệu cho người Việt Tự Do, màu vàng ba sọc đỏ, tự tay choàng lên cổ, trong tiếng hoan hô vang dậy của ĐHGT thế giới, và đặc biệt tiếng reo hò nồng nhiệt của phái đoàn các bạn trẻ Việt Nam từ năm châu bốn bể tụ về Úc Châu trong dịp lễ này.

Nỗi vui của người Việt Nam hiện diện đã vậy. Nhưng còn là nỗi vui và ngấn lệ của người Việt Nam tỵ nạn có mặt trên khắp thế giới, khi nhìn thấy được hình ảnh này đã dâng cao tột cùng. Đây đúng là tâm tình, sự hiệp thông trong tinh thần của số đông người Việt tỵ nạn thầm lặng, họ không đến được Sydney để tham dự ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, nhưng họ đã theo dõi, đã hiệp thông với ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới qua những phương tiện truyền thông.

- Hiệp thông trong tinh thần.

Người ở miền Nam Việt Nam sau ngày 30-04-1975 tìm đường ra đi xin tỵ nạn ở  khắp các châu lục trên thế giới, miễn là ở nơi đó có Tự Do có dân chủ và nhân quyền. Họ không quản ngại gian lao và vất vả, họ vượt qua mọi khó khăn, dù khó khăn đó là tù ngục khi bị phát hiện và bắt lại trong lúc tìm đường vượt thoát, hoặc bị chết giữa biển khơi khi bị phong ba bão táp, hoặc gặp bất cứ tình huống bất trắc nào xẩy ra cho họ, kể cả sự chết. Khi con người đã chấp nhận cái rủi ro cuối cùng là sự chết, để chọn lấy sự tự do khi được sống, thì cái sự hiệp thông trong tinh thần này nó vô cùng nhậy cảm, rất mãnh liệt. Mãnh liệt đến nỗi có rất nhiều hoàn cảnh những người ra đi tìm Tự Do, đã phải mất hết tất cả,: tài sản, sự nghiệp, danh dự. Chính vì lẽ đó, khi đến được bờ bến Tự Do, họ đã phấn đấu làm việc, học hành một cách chăm chỉ, cố quên đi danh vọng địa vị của qúa khứ, khi họ được hưởng ở một miền Nam Tự Do không Cộng Sản. Họ rất trọng danh dự, rất kính trọng lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, vì lẽ đó, trong mọi dịp lễ tết hội hè, bao giờ cũng có phần mở đầu bằng lễ nghi chào Quốc Kỳ. Sau đó đến phần mặc niệm những chiến sĩ Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa đã vị quốc vong thân, để giữ cho miền Nam được Tự Do, không Cộng Sản. Và, mặc niệm những người đồng hội đồng thuyền trên bước đường đi tìm kiếmTự Do mà đã không đến được bến bờ, đã bỏ mình nơi biển cả, trong rừng sâu, vì thiên tai, bão tố, cướp biển, hải tặc hãm hiếp và giết chết.

Nhờ tình liên đớn và hiệp thông này, mà khi người tỵ nạn của miền Nam Việt Nam có mặt ở các nước có Tự Do Dân Chủ, thì các cộng đồng được mọc lên, các bản tin thủa đầu, tiếp theo là báo chí và các phương tiện truyền thông được phát hành; để loan tải các tin tức, sinh hoạt đời sống của người Việt khắp nơi trên thế giới. Các bài tham luận, bình luận về tình hình Việt Nam và thế giới được đem đến cho người Việt tỵ nạn. Sở dĩ người tỵ nạn chúng ta mau chóng làm được việc đó, vì chúng ta có sự hiệp thông trong tinh thần; những điều suy nghĩ của anh, cũng là những cảm nghĩ của tôi. Nhờ vậy mà đã hơn 30 qua, các cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại vẫn tồn tại, lại có phần khởi sắc hơn. Nhất là mỗi khi có một vấn đề nhậy cảm liên quan đến chính trị, đến Tự Do và Nhân Quyền, nhất là vấn đề tự do tôn giáo.

- Hiệp thông trong cùng một đức tin.

Mỗi người khi sinh ra được thừa hưởng đức tin của một tôn giáo, do tổ tiên, ông bà, cha mẹ truyền cho từ đời này sang đời khác. Lại có người khi đến tuổi trưởng thành thì tự mình đi tìm hiểu một tôn giáo, khi đã tin nhận thì coi đó là tôn giáo của mình. Những người có cùng một niềm tin, họ có sự hiệp thông mãnh liệt hơn cả những người, chỉ có sự hiệp thông trong tinh thần. Vì họ nhận ra ánh sáng từ một chân lý, của một tôn giáo, họ coi vị lãnh đạo tinh thần của họ còn hơn cả vị lãnh đạo của một quốc gia. Họ thần phục người lãnh đạo tinh thần của họ vì họ tin, người lãnh đạo của họ được sự kế thừa của những quyền năng siêu phàm, như Đức Đạt Lai Lạt Ma, được công nhận đầu thai của vị tiền nhiệm thứ 13. Đức Giáo Hoàng là người được bầu chọn trong một mật viện Hồng Y, được chọn ra để lãnh đạo Giáo Hội Hoàn Vũ, là một người đạo đức thánh thiện, đã được xức dầu và được đầy ơn của Chúa Thánh Thần, được ơn bất khả ngộ khi dậy những điều về chân lý. Cho nên dù còn tại thế, Người đã được gọi là Đức Thánh Cha.

Sự hiệp thông trong tinh thần, như: đồng một chủng tộc, một màu da, một ngôn ngữ, đồng một quan điểm chính trị, cùng chung dưới một màu cờ, đã là một biểu hiệu của sự đoàn kết, mà dù kẻ thù có muốn chống lại, muốn chia rẽ, lũng đoạt bằng những Nghị Quyết như NQ số 36 của Bộ Chính Trị CSVN đối với người Việt Nam ở nước ngoài, thì cũng vô hiệu. Nếu lại có thêm sự hiệp thông, cùng một niềm tin vào một tôn giáo, như niềm tin của Kitô Giáo, chống lại chủ thuyết vô thần duy vật của Cộng Sản, thì cái sức mạnh ấy nó trở thành vô song. Niềm hiệp thông và ấn tượng lớn lao cho người Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Việt Nam trên toàn thế giới là hình ảnh, một rừng cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tại ngày bế mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, tại Úc Châu 17-07-2008.  Và đặc biệt hình ảnh một bạn trẻ Việt Nam Phạm Vũ Anh Dũng trao tặng vị Giáo Chủ, khăn choàng mang màu Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, và chính Ngài tự tay choàng lên cổ, là một hình ảnh còn lưu lại muôn đời trong lịch sử, và cho các thế hệ người Việt Nam Tỵ Nạn ở hải ngoại ./-

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.