NEW YORK (KL)- Theo ký giả Neil Buckley, ba phần tư các công ty Hoa kỳ và các cơ quan đại diện chính quyền đã phát hiện ra gian lận năm ngoái, so sánh với cách đây 5 năm chỉ có 65 phần trăm, theo cuộc nghiên cứu tổng quát của công ty kế toán KPMG, một công ty Đức nổi tiếng trên thế giới về nghiệp vụ hạch toán.
Song các công ty đã chú tâm nhiều hơn vào vụ gian lận đang phát hiện ra bằng những cách kiểm soát gắt gao hơn, bằng đường dây nóng, bằng giáo huấn và bằng những chương trình chống sự gian lận, theo như cuộc nghiên cứu này đã cho biết.
Bản tường trình đưa ra ngày thứ hai, khảo sát các công ty có doanh thu hàng năm trên 250 triệu Mỹ kim cũng như các cơ quan đại diện liên bang và tiểu bang tại Hoa kỳ, ông Richard Girgenti là hội viên chuyên trách về pháp nghiệm theo công ty KPMG (giảo nghiệm dựa trên cơ sở pháp lý (forensic) ), ông đã cho biết, việc xẩy ra trong sự phát hiện gian lận tuy có cao hơn, không có nghĩa là tội gian lận phát sinh thêm.
“Việc này làm cho các công ty cảnh giác thêm và nhậy bén hơn,” theo lời của ông hội viên này.
Ông cho biết thêm về các cơ cấu hiện nay theo như báo cáo về gian lận trước mũi của luật pháp (64 phần trăm được biết là họ đã gian lận trong thời gian hiện giờ, so sánh với 34 phần trăm của năm 1998) hay bị đưa ra tòa (64% so với 37%).
Ông Girgenti cho biết: “Vì tập tục thay đổi, dân chúng nhận ra rằng việc gian lận không phải là một vấn đề nội bộ của một công ty, nhưng là vấn đề về mặt luật pháp và cần thiết để bảo vệ những người bỏ tiền vào đầu tư.”
Các hành động kiểm soát nội bộ được đánh giá lớn hơn đối với các công ty như là những phương tiện chính để dò ra gian lận, hiện nay 77% phát hiện được nhờ vào sự khai báo của nhân viên, so với 51% của năm 1998.
Gian lận của nhân viên như là về lương bổng hay đánh cắp tài sản, hoặc lạm chi thường xẩy ra nhiều nhất, hiện nay đang ảnh huởng tới 60 phần trăm của các công ty – dầu sao đi nữa việc gian lận tài chánh, y tế hay bảo hiểm còn tốn hơn nhiều.
Các bị cáo đã chỉ cho thấy vấn đề gian lận đang gia tăng do hậu quả cấu kết hay thông đồng giữa các nhân viên với các đệ tam nhân; theo nhự nghiên cứu trước đây có 31% vụ thông đồng trong việc gian lận, nay đã tăng lên tới 48%.
Ông Girgenti cho biết, điển hình những vụ thuờng xẩy ra là việc lại quả (kickback) hay hối lộ – thí dụ như trả lễ nhờ đoạt được một hợp đồng hay thắng được một vụ bỏ thầu. Nhưng việc này cũng xẩy ra dưới hình thức nội gián giúp người ngoài đánh cắp bí mật của công ty, cũng như hàng tồn kho.
Thông đồng được coi là một trong những vụ gian lận lớn nhất của công ty năm nay:
900 triệu Mỹ kim tiền lãi khai quá lố của công ty US Foodservice, chi nhánh của công ty Ahold tại Hoa kỳ, Ahold là đại công ty tạp phẩm của Hà Lan
Các nhân viên điều tra đang tìm xem có phải nhân viên nằm trong công ty US Foodservice đã cấu kết với các cá nhân của các công ty cung cấp thực phẩm để thổi phòng lên số tiền nợ của các nhà phân phối thực phẩm.
“Vụ cấu kết này là vụ gian lận theo hình thức vòng vo và tinh vi hơn nhiều, phanh phui ra còn khó hơn nữa,” theo lời của ông Girgenti.
Cuộc nghiên cứu này thấy ba trong bốn cơ cấu đã duyệt xét thấy có hiệu quả nhờ các chương trình về chống gian lận hay các phương thức chống gian lận chiếu theo đạo luật Sarbanes-Oxley, một đạo luật buộc hội đồng của các công ty phải có giám định viên về kế toán.
Kế toán của một công ty thường coi như là giao diện giữa công ty với những người bỏ tiền ra đầu tư không biết gì về nội bộ công ty.
Song các công ty đã chú tâm nhiều hơn vào vụ gian lận đang phát hiện ra bằng những cách kiểm soát gắt gao hơn, bằng đường dây nóng, bằng giáo huấn và bằng những chương trình chống sự gian lận, theo như cuộc nghiên cứu này đã cho biết.
Bản tường trình đưa ra ngày thứ hai, khảo sát các công ty có doanh thu hàng năm trên 250 triệu Mỹ kim cũng như các cơ quan đại diện liên bang và tiểu bang tại Hoa kỳ, ông Richard Girgenti là hội viên chuyên trách về pháp nghiệm theo công ty KPMG (giảo nghiệm dựa trên cơ sở pháp lý (forensic) ), ông đã cho biết, việc xẩy ra trong sự phát hiện gian lận tuy có cao hơn, không có nghĩa là tội gian lận phát sinh thêm.
“Việc này làm cho các công ty cảnh giác thêm và nhậy bén hơn,” theo lời của ông hội viên này.
Ông cho biết thêm về các cơ cấu hiện nay theo như báo cáo về gian lận trước mũi của luật pháp (64 phần trăm được biết là họ đã gian lận trong thời gian hiện giờ, so sánh với 34 phần trăm của năm 1998) hay bị đưa ra tòa (64% so với 37%).
Ông Girgenti cho biết: “Vì tập tục thay đổi, dân chúng nhận ra rằng việc gian lận không phải là một vấn đề nội bộ của một công ty, nhưng là vấn đề về mặt luật pháp và cần thiết để bảo vệ những người bỏ tiền vào đầu tư.”
Các hành động kiểm soát nội bộ được đánh giá lớn hơn đối với các công ty như là những phương tiện chính để dò ra gian lận, hiện nay 77% phát hiện được nhờ vào sự khai báo của nhân viên, so với 51% của năm 1998.
Gian lận của nhân viên như là về lương bổng hay đánh cắp tài sản, hoặc lạm chi thường xẩy ra nhiều nhất, hiện nay đang ảnh huởng tới 60 phần trăm của các công ty – dầu sao đi nữa việc gian lận tài chánh, y tế hay bảo hiểm còn tốn hơn nhiều.
Các bị cáo đã chỉ cho thấy vấn đề gian lận đang gia tăng do hậu quả cấu kết hay thông đồng giữa các nhân viên với các đệ tam nhân; theo nhự nghiên cứu trước đây có 31% vụ thông đồng trong việc gian lận, nay đã tăng lên tới 48%.
Ông Girgenti cho biết, điển hình những vụ thuờng xẩy ra là việc lại quả (kickback) hay hối lộ – thí dụ như trả lễ nhờ đoạt được một hợp đồng hay thắng được một vụ bỏ thầu. Nhưng việc này cũng xẩy ra dưới hình thức nội gián giúp người ngoài đánh cắp bí mật của công ty, cũng như hàng tồn kho.
Thông đồng được coi là một trong những vụ gian lận lớn nhất của công ty năm nay:
900 triệu Mỹ kim tiền lãi khai quá lố của công ty US Foodservice, chi nhánh của công ty Ahold tại Hoa kỳ, Ahold là đại công ty tạp phẩm của Hà Lan
Các nhân viên điều tra đang tìm xem có phải nhân viên nằm trong công ty US Foodservice đã cấu kết với các cá nhân của các công ty cung cấp thực phẩm để thổi phòng lên số tiền nợ của các nhà phân phối thực phẩm.
“Vụ cấu kết này là vụ gian lận theo hình thức vòng vo và tinh vi hơn nhiều, phanh phui ra còn khó hơn nữa,” theo lời của ông Girgenti.
Cuộc nghiên cứu này thấy ba trong bốn cơ cấu đã duyệt xét thấy có hiệu quả nhờ các chương trình về chống gian lận hay các phương thức chống gian lận chiếu theo đạo luật Sarbanes-Oxley, một đạo luật buộc hội đồng của các công ty phải có giám định viên về kế toán.
Kế toán của một công ty thường coi như là giao diện giữa công ty với những người bỏ tiền ra đầu tư không biết gì về nội bộ công ty.
Gửi ý kiến của bạn