Hôm nay,  

Vì Một Thế Giới Bao Dung, Bình An

31/01/202500:00:00(Xem: 3426)
Hình lớn trang nhất_istockphoto
“Đôi khi chúng ta mong chờ phép lạ để thế giới hòa bình. Thế rồi nhiều người trong chúng ta cầu nguyện.”  Ảnh: istockphoto.
Tháng đầu tiên của năm 2025 đang trôi qua. Nhiều câu hỏi đang hiện ra trên các trang báo. Thế giới có thể sẽ bình an hơn? Dân tộc Palestine có thể sẽ được phép cho lập quốc? Ukraine có thể đã tới gần ngày ngưng bắn? Biển Đông sẽ ngưng sóng gió? Cuộc chiến Đài Loan sẽ thoát được? Nam Hàn và Bắc Hàn sẽ làm hòa với nhau? Chúng ta không mong đợi phép lạ hiện ra cho thế giới này, chỉ mong đợi năm 2025 đỡ bất an hơn. Nếu không chấp nhận những dị biệt của nhau, để cởi mở với những tư tưởng đa nguyên hơn, thế giới này sẽ cứ mãi bất an.

Nỗi lo lớn nhất của nhân loại là chiến tranh. Lời chúc cần thiết nhất cho nhân loại hiển nhiên phải là hòa bình, bởi vì trong mấy năm qua, tuy chưa nổ trái bom hạt nhân nào, mà hầu hết các nơi ở Gaza và Ukraine đã trở thành gạch vụn. Đó là chưa kể tới thiệt hại về nhân mạng, khi một người chết đi, là một gia đình đau đớn, và cả một cộng đồng lay chuyển.

Đôi khi chúng ta mong chờ phép lạ để thế giới hòa bình. Thế rồi nhiều người trong chúng ta cầu nguyện. Mà phép lạ trong cõi này thường là tin giả, do bên này hay bên kia phóng ra. Vì nếu có phép lạ để chiến tranh biến mất được thì chuyện đó đã xảy ra trên cõi này từ lâu rồi. Phép lạ kiểu đó lại là điểu khả nghi nhất trong vũ trụ này, bởi vì chiến tranh đã xuất hiện trên địa cầu từ nhiều ngàn năm trước, dù là lúc đó vũ khí chỉ là gậy gộc, gạch đá. Thậm chí, ngay tới các tôn giáo cùng thờ một Thượng đế cũng có thể xảy ra thánh chiến. Ngay cả tới Myanmar, nơi đa số người dân sùng mộ tôn giáo hòa bình nhất thế giới là Phật giáo cũng rồi bùng nổ nội chiến. Khi lòng mình chưa bình an, lấy đâu ra một thế giới bình an?

Tuy nhiên, tại sao lại không thể ước mơ về một phép lạ cho cõi này bình an hơn? Mỗi ngày, tôi ngồi dịch tin thế giới, tự thấy rất nhiều ngày lòng mình trĩu nặng. Bom càng lúc càng tàn phá dữ dội. Chết nhiều quá. Không chỉ lính, mà trẻ em chết cũng vô số kể ở Gaza. Đôi khi, tôi ước mơ rằng, hãy hình dung tới một phép lạ: nhiều triệu chiến binh đang chiến đấu, phục kích nhau, chĩa mũi súng vào nhau, nơi các chiến trường Gaza, Syria, Ukraine, Myanmar... Bỗng nhiên có một khoảnh khắc nào đột nhiên tất cả cùng tỉnh ngộ, cùng buông súng. Mỗi chiến binh lúc đó, mỗi người rút ra tờ giấy và cây bút, cùng ngồi vào bàn làm một bài thơ để mừng ngày buông súng. Tại sao làm thơ? Tôi mường tượng như kiểu nhà thơ Pablo Neruda, người từng viết rằng: “Thơ là một hành động của hòa bình. Hòa bình là chất liệu để làm nên một nhà thơ, y như bột làm nên bánh mì.”  (Poetry is an act of peace. Peace goes into the making of a poet as flour goes into the making of bread.)

Nếu xảy ra chuyện như thế, hãy hình dung thế này: cả triệu chiến binh sau khi quăng súng, làm xong bài thơ mừng ngày buông súng, liền lấy trang thơ đó xếp làm máy bay giấy, phóng vào nhau như thời trẻ nhỏ đi học. Nếu có chuyện như thế, hiển nhiên cõi này còn tuyệt hơn cả cõi thơ.

Nỗi lo chiến tranh trong tương lai gần là Đài Loan. Có thể Hoa Lục sẽ dấy binh để chiếm Đài Loan? Không ai có thể trả lời được điều gì. Người dân xứ con trời vốn say mê tử vi, toán số cũng không dám tiên đoán điều gì về một tương lai gần cho cuộc chiến nơi eo biển này.

Một cơ hội vàng cho nền dân chủ Trung Quốc đã bị vùi dập năm 1989, khi xe tăng tràn vào Thiên An Môn, dùng bạo lực vũ trang để đàn áp các sinh viên biểu tình vì họ mơ ước đưa Trung Quốc vào một chế độ đa nguyên hơn, cởi mở hơn, bình đẳng hơn, và pháp trị hơn. Tuổi trẻ Thiên An Môn 1989 lúc đó say sưa đọc những bài thơ về ước mơ dân chủ trong khi họ biểu tình. Trong đó, có ảnh hưởng lớn là nhà thơ Bei Dao. Khi những cuộc biểu tình ở Thiên An Môn bùng nổ, lúc đó Bei Dao (sinh năm 1949) đang dự hội nghị văn học ở San Francisco. Và bây giờ, trong những năm cuối đời, nhà thơ Bei Dao đang sống tại Hồng Kông, nơi ông giữ chức Giáo sư danh dự ngành Nhân văn tại Đại học Trung văn Hồng Kông (Chinese University of Hong Kong).

zz 2 nha tho Bei Dao
Nhà thơ Bei Dao
Một bài thơ nổi tiếng của Bei Dao được sinh viên đọc trong các cuộc biểu tình là bài “Câu trả lời” (The Answer), trong đó có những câu như nói thẳng với nhà cầm quyền Bắc Kinh là nhà thơ sẵn sàng đứng về phía những người bị giày đạp dưới chân bạo lực:

Thế giới, hãy để tôi nói cho bạn biết
Tôi—không—tin!
Nếu một ngàn kẻ thách thức nằm dưới chân bạn,
Hãy coi tôi là người số một nghìn lẻ một.
 
Một bài thơ khác của Bei Dao cũng được nhiều sinh viên học thuộc lòng là bài “Tuyên ngôn” (Declaration). Chai Ling (sinh năm 1966) là một trong các lãnh đạo sinh viên trong cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Khi biểu tình bị đàn áp, và bản thân bị truy bắt, cô Chai Ling trốn sang Hồng Kông và sau đó trốn sang Pháp. Chai Ling kể lại trong phim tài liệu Gate of Heavenly Peace, cô đã chứng kiến ​​cảnh binh lính giết chết những sinh viên biểu tình bên trong Quảng trường Thiên An Môn.

Trả lời phỏng vấn của các đài truyền hình nước ngoài sau khi trốn thoát khỏi Trung Quốc, thủ lĩnh sinh viên biểu tình Chai Ling đã chứng minh ảnh hưởng của tác phẩm Bei Dao khi cô trích dẫn bài thơ "Tuyên ngôn" của Bei Dao:

Tôi sẽ không quỳ gối trên mặt đất
để những kẻ hành quyết trông cao lớn
để che khuất ngọn gió tự do.
 
Một năm sau, một nhà thơ Đài Loan đã kể về những cuộc trấn áp trong Hoa Lục, nơi các bức tường đều có tai, có mắt. Nhà thơ Chen Li (sinh năm 1954), sinh ra và lớn lên tại Hoa Liên, một thành phố nhỏ ở bờ biển phía đông Đài Loan, viết trong bài thơ “Bức Tường” (The Wall) năm 1990 với những dòng ghi về thân phận con người bị bao vây bởi các bức tường có tai, có mắt, trích:

Nó nghe chúng ta khóc.
Nó nghe chúng ta thì thầm.
Nó nghe thấy chúng ta xé giấy dán tường,
lo lắng tìm giọng nói của những người thân đã khuất—
những hơi thở, tiếng ngáy và tiếng ho dữ dội,
mà chúng ta chưa bao giờ nghe thấy.
Bức tường có tai.
Bức tường là một máy ghi âm câm.
 
Chiến tranh gay gắt nhất trong năm 2024 là ở Gaza và Ukraine. Cuộc chiến giữa Palestine và Israel đã kéo dài gần cả thế kỷ, và có vẻ như sẽ bất tận, sẽ kéo tới cả ngàn năm, nếu nhân loại vẫn cứ kẹt vào phân biệt tôn giáo, sắc tộc, lãnh thổ.

Một nhà thơ Israel đã kêu gọi hòa bình Trung Đông từ vài thập niên trước, khi ông còn sinh tiền, vậy mà bây giờ bom đan càng lúc càng tàn phá khốc liệt hơn thời xưa. Nhà thơ Yehuda Amichai (1924-2000) là một trong những nhà thơ quan trọng nhất của Israel. Thơ Amichai xuất hiện trong thời kỳ hậu Holocaust, một giai đoạn tái thiết quốc gia và tự kiểm tra mạnh mẽ ở Israel, thường có đề tài về tình yêu, mất mát, hòa bình, đức tin và sự phức tạp của cuộc sống hàng ngày ở Israel.  

zz 3 nha tho Amichai
Nhà thơ Yehuda Amichai 
Bài thơ “The Diameter of the Bomb” (Đường Kính của Quả Bom) của Yehuda Amichai có những dòng sau:

Đường kính của quả bom là ba mươi centimet
và đường kính công phá của nó khoảng bảy mét,
với bốn người chết và mười một người bị thương.
Và xung quanh những thứ này, trong một vòng tròn lớn hơn
của nỗi đau và thời gian, hai bệnh viện nằm rải rác
và một nghĩa trang...
 
Nơi phía bên kia, phía của Palestine, những người mất lãnh thổ, có một nhà thơ trẻ hơn: Naomi Shihab Nye (sinh năm 1952), một người Mỹ gốc Ả Rập. Cô Naomi Shihab Nye có cha là người Palestine và mẹ là người Mỹ. Trong bài thơ “Arabic” (Tiếng Ả Rập), có những dòng sau đây:

Người đàn ông với đôi mắt biết cười ngừng cười
để nói, “Cho đến khi bạn nói tiếng Ả Rập,
bạn sẽ không hiểu được nỗi đau.”
 
Đối với người Nhật Bản, con chim hạc là một biểu tượng hòa bình. Và người dân Nhật tin rằng khi bạn xếp được một ngàn con hạc giấy, bạn sẽ có một lời ước được hình thành. Cuốn tiểu thuyết “Sadako and the Thousand Paper Cranes” (Sadako và Một Ngàn Con Hạc Giấy) là chuyện về một ước mơ như thế. Đây là một tiểu thuyết lịch sử dành cho trẻ em do nhà văn Eleanor Coerr, người Mỹ gốc Canada, viết theo lời kể và xuất bản năm 1977.

zz 4 Sadako and Thousand Cranes
Truyện dựa trên câu chuyện có thật về Sadako Sasaki, một nạn nhân của vụ dội bom nguyên tử ở Hiroshima, Nhật Bản trong Thế chiến II. Cô bé Sadako quyết tâm xếp một nghìn con hạc giấy khi đang hấp hối vì bệnh bạch cầu do bức xạ từ quả bom gây ra. Cuốn sách đã được dịch sang nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nơi, để sử dụng cho các chương trình giáo dục hòa bình ở các trường tiểu học.

zz 1 students cranes for peace

Xếp giấy hình chim hạc để cầu nguyện cho hòa bình. (Hình Bing AI)

 
Sau khi được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu do bức xạ từ vụ đánh bom nguyên tử ở Hiroshima, bạn của Sadako đã bảo cô gấp hạc giấy theo nghệ thuật origami với hy vọng sẽ xếp được một ngàn con hạc. Cô lấy cảm hứng từ truyền thuyết Nhật Bản rằng bất kỳ ai tạo ra một ngàn con hạc giấy origami sẽ được ban cho một điều ước. Điều ước của cô chỉ đơn giản là sống sót sau căn bệnh của mình để có thể thực hiện ước mơ được tham gia nhóm chạy thể thao. Trong câu chuyện kể lại trong tiểu thuyết này, cô chỉ gấp được 644 con hạc trước khi quá yếu để gấp thêm nữa, và cô qua đời trong giấc ngủ vào sáng ngày 25/10/1955. Bạn bè và gia đình đã giúp cô hoàn thành ước mơ bằng cách gấp nốt số chim hạc còn lại, và các chim hạc giấy này được chôn cùng cô Sadako.

Nhưng đời lúc nào cũng bất toàn. Truyện bị cho là không hoàn toàn đúng như ngoài đời. Cuốn tiểu thuyết của Coerr ghi rằng cô Sadako "đã chết trước khi hoàn thành 1000 con hạc giấy, và hai người bạn của cô đã hoàn thành nhiệm vụ, đặt những con hạc đã hoàn thành vào quan tài của cô" đã bị những thành viên còn sống trong gia đình cô phản đối. Theo gia đình cô, và đặc biệt là anh trai cô Masahiro Sasaki, người đã nói về cuộc đời của em gái mình tại các buổi nói chuyện về bom nguyên tử và hòa bình sau đó, Sadako không chỉ gấp được 644 con chim hạc mà còn vượt qua mục tiêu 1.000 con và qua đời sau khi gấp được khoảng 1.450 con hạc giấy. Trong cuốn sách The Complete Story of Sadako Sasaki (2018) đồng sáng tác với Sue DiCicco, người sáng lập Dự án Peace Crane, anh Masahiro cho biết Sadako đã vượt qua mục tiêu của mình.

Thế mới biết, cõi này luôn luôn có chuyện bất ổn. Tại sao tiểu thuyết phải có một cốt truyện hư vỡ, phải cho thấy chuyện xếp hạc giấy là công trình dở dang? Thực tế, cõi này bất an, ngay cả trong tiểu thuyết cũng phải bất an khốc liệt như đời thường. Nếu bạn nhớ lại, ngay trong giáo đoàn thời Đức Phật cũng có lúc chia phe, rồi tranh cãi, không giữ được hòa hài.

Kinh Pháp Cú Tích Truyện kể rằng trong khi trú ngụ tại khu rừng Palileyya nơi con voi Palileyyaka hầu hạ Ngài, Đức Phật đã đọc những bài kệ (328), (329) và (330) của Pháp Cú, liên quan đến các Tỳ kheo từ Kosambi. Một lần, các nhà sư ở Kosambi chia thành hai nhóm; một nhóm theo vị thầy về Giới Luật (Vinaya) và nhóm kia theo vị thầy thiên về Giáo pháp (Dhamma). Họ không chịu hài hòa với nhau. Họ cũng không chịu nghe lời Đức Phật khuyên họ hãy làm hòa với nhau. Vì vậy, Đức Phật đã rời bỏ họ và trải qua mùa an cư một mình trong rừng, nơi con voi Palileyyaka hầu hạ Ngài.

Vào cuối mùa an cư, Tôn giả Ananda đi vào rừng, cùng với năm trăm Tỳ kheo. Để các Tỳ kheo ở một khoảng cách xa, Đức Tôn giả Ananda đến gần Đức Phật một mình. Sau đó, Đức Phật bảo Ananda gọi các Tỳ kheo khác. Tất cả mọi người đều đến, cúi chào Đức Phật và nói, "Thưa Đức Phật! Ngài hẳn đã phải rất vất vả khi trải qua mùa an cư một mình trong khu rừng này."

Đáp lại, Đức Phật trả lời, "Các Tỳ kheo, đừng nói như vậy; con voi Palileyyaka đã chăm sóc ta suốt thời gian qua. Quả thực, nó là một người bạn rất tốt, một người bạn thực sự. Nếu một người có một người bạn tốt như vậy, người đó nên gắn bó với nó; nhưng nếu không tìm được một người bạn tốt thì tốt hơn là nên ở một mình."

Hình 3

Phan Tấn Hải và ban biên tập Việt Báo kính chúc quý độc giả, quý thân chủ một năm mới Ất Tỵ an vui, thành đạt.

 
Thấy đó. Nếu bạn thấy những chuyện bất hòa xảy ra nơi này, nơi kia, thì hãy nhớ về câu chuyện một giáo đoàn tu để an tâm, vậy mà cũng có lúc bất hòa nhau. Thế rồi tới những chuyện khác hơn. Những dị biệt giữa sắc tộc này với sắc tộc kia, giữa đất nước này với đất nước kia... Chỉ hy vọng rằng thế giới này sẽ bớt bất hòa.

Hay là, phải chờ phép lạ: các chiến binh trên thế giới rủ nhau ngồi xuống, lấy giấy mực ra làm thơ. Tuy nhiên, trở ngại vẫn còn lớn lao: rào cản ngôn ngữ giữa tiếng Ả Rập và tiếng Do Thái. Và rào cản giữa tiếng Nga và tiếng Ukraine. Hay là, các chiến binh sẽ rủ nhau ngồi xếp giấy một người một ngàn con chim hạc? Hãy cứ ước mơ, phải không bạn. Năm 2025 sẽ tha hồ cho những con chim hạc giấy cất cánh...

Phan Tấn Hải
 

Ý kiến bạn đọc
31/01/202517:28:57
Khách
Đọc bài này, anh viết vào đầu năm Tết... thật quý! Những sự tích về thơ cho một thế giới hòa bình mang nội dung quá xâu sắc. Hòa bình, mọi người đều mong đợi liệu sẽ trở thành sự thật? Người ta bảo chất thơ mềm yếu như gió thoảng mây trôi nhưng cũng có kẻ lại vịn vào thơ mà đứng dậy như Phùng Quán. Cầu mong các chiến binh cùng gác súng vịn vào thơ cho thế giới này tốt đẹp hơn. Có người cũng đang nghĩ "thơ thẩn" như anh.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”
Bạn tắt hết điện thoại, truyền hình, bạn gập lại các quyển sách đang đọc. Bạn ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, khóa kín cửa, hay bạn ngồi trên một tảng đá trong rừng, hay bạn ngồi giữa chợ, điều ấy không quan trọng. Bạn không cần phải thực hành bất kì một lễ nghi tôn giáo, yoga hay thiền nào cả.
Một trong những thành tựu quan trọng đáng tự hào của cộng đồng người Việt là sự thành công của những cây bút người Mỹ gốc Việt, kể câu chuyện Việt góp phần vào nền văn học lưu vong Việt Nam cũng như góp mặt vào dòng văn học chính Hoa Kỳ. Bài giới thiệu sách này thuộc loạt bài giới thiệu các tác giả, tác phẩm thuộc dòng văn học thế hệ thứ nhất-thứ hai, trong thời điểm 50 Năm Nhìn Lại, từ biến cố tháng Tư, 1975.
Bạn có thích đọc thơ không? Người ta nói, mỗi người Việt là mỗi nhà thơ. Nhà thơ sao lại không đọc thơ? À, như vậy, bạn có đọc thơ. Dĩ nhiên bạn thích đọc thơ hay. Nhưng làm thế nào để biết bài thơ hay? Có bài thơ được nhiều người khen hay quá trời, sao bạn lại nghĩ là dở. Hoặc bạn hí hửng khoe bài thơ hay vừa đọc được, người bạn đọc xong, lắc đầu. Sao vậy? Thơ hay không bảo đảm người đọc đồng ý với nhau. Hãy hỏi bạn Trí Thông Minh Nhân Tạo (A.I.), trông cậy anh ta biết nhiều, hiểu rộng, có thể cho đôi lời vắn tắt.
Tôi có một thói quen xấu khi đọc sách – luôn bắt đầu bằng cách mở trang cuối và đọc hàng cuối rồi gấp sách lại xem đầu óc mình nghĩ gì. Hôm nay, mở cuốn “Stories from the Edge of The Sea”, cuốn sách dày 216 trang với 14 truyện ngắn của tác giả người Mỹ gốc Việt Andrew Lâm, tôi lẩm nhẩm: “Hãy đứng đến giây phút cuối cùng, và bạn sẽ không bao giờ, không bao giờ phải đứng một mình.“* “Giây phút cuối cùng”? Không hiểu sao hình ảnh Việt Nam những ngày cuối tháng Tư, 1975 hiện về. Dẫu chỉ là một đứa bé con 6 tuổi vào thời điểm này, nhưng lớn lên và sống với những hệ lụy lịch sử kéo dài từ cái ngày định mệnh đó, ngay trên mảnh đất quê hương bị đánh mất, những mảng đời, những câu chuyện, những ám ảnh, những mất mát luôn là những gì mà chính tôi, bạn bè tôi, gia đình tôi, quê hương, dân tộc tôi, vẫn gồng mình hứng chịu… dẫu nửa thế kỷ đã trôi qua. Tôi hiểu mình sẽ bắt đầu đọc cuốn sách này bằng một sự “khó ở” trong lòng của một độc giả người Việt sống xa quê hương, trong tâm trạng u uẩn
Cô lớn lên như một đứa con gái tomboy, đánh gậy bóng chày giỏi hơn thằng em trai mình, có thể đá văng cặp kính ra khỏi mặt một thằng con trai, và vì thế cô không gần với mẹ lắm. Cô chẳng thấy mẹ mình có gì đáng yêu kính. Bà là người với một thân hình đẫy đà, có tật ngồi lê đôi mách, luôn tay luôn chân công việc nhà cửa, lại nợ nần cờ bạc, chẳng bao giờ thích hoạt động ngoài trời, vì quá quan tâm đến những chuyện trong gia đình nên bà chẳng hề đi đâu thăm thú thế giới, đại dương này nọ, ví dụ, bầu trời xanh chẳng có gì cho bà quan tâm, thấy thú vị.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.