Hôm nay,  

Hai Bài Thơ Mới Được Phát Hiện: Virginia Woolf Hóa Ra Cũng Là Một “Bà Dì Vui Tánh”

31/01/202500:00:00(Xem: 738)

hai bai tho
Chân dung Virginia Woolf (25/1/1882 – 28/3/1941) chụp năm 1902. (Nguồn: Ảnh từ Wikimedia Commons)
Một tin tức nóng hổi trong giới văn học hiện đại thế kỷ 20: Virginia Woolf, nữ tiểu thuyết gia và nhà viết tiểu luận (essayist) nổi tiếng, hóa ra còn sở hữu một tài năng khác: làm thơ. Bí mật này được hé lộ nhờ những tài liệu mới được phát hiện bởi Sophie Oliver, giảng viên về chủ nghĩa hiện đại tại Đại học Liverpool.
 
Trong quá trình nghiên cứu về nhà văn Gertrude Stein tại Trung tâm Harry Ransom, thư viện lưu trữ thuộc Đại học Texas ở Austin, Oliver đã tình cờ khám phá ra những vần thơ bị lãng quên này. Như một cách để tạm tránh cái nóng oi ả của Texas, bà quyết định xem qua các tài liệu liên quan đến Virginia Woolf. Khi đang lật giở một tập thư Woolf gửi cho cháu gái Angelica, bà bất ngờ phát hiện hai tờ giấy được gấp lại. Những tờ giấy này trông khác biệt so với loại giấy dùng trong các bức thư khác, và trên đó có những dòng chữ viết bằng bút chì.
 
Rõ ràng đây là hai bài thơ viết vội,” Oliver cho biết. “Và tôi thấy lạ lạ, bởi vì Virginia Woolf đâu phải nhà thơ.
 
Sau phát hiện bất ngờ này, Oliver đã dày công nghiên cứu các tài liệu hiện có về Woolf, và cũng tham vấn ý kiến của các chuyên gia hàng đầu về Woolf, nhưng không tìm thấy bất kỳ thông tin nào về sự tồn tại của những bài thơ này. Oliver cho rằng chúng đã bị bỏ qua bởi các nhà nghiên cứu trước đây “vì người ta không nghĩ đến việc tìm kiếm trong tập thư Woolf gửi cho người cháu gái Angelica. Dù phần lớn các lá thư đã được công bố, chỉ những lá thư có gì đó thú vị mới thu hút sự chú ý của mọi người.
 
Oliver ước tính thời điểm ra đời của những bài thơ này là khoảng sau tháng 3 năm 1927. Chúng hé lộ một khía cạnh hoàn toàn mới về Woolf. Một trong hai bài thơ có tựa đề là “Hiccoughs,” được viết tặng cháu trai Quentin Stephen Claudian. Đó là một bài thơ vui nhộn, sử dụng lối chơi chữ, tập trung vào âm thanh và ngôn ngữ.
“Poor Quentin / went in / to a cough? Or should we call it a cup? / Hiccough? Hiccup?”
(Xin tạm lược dịch: Quentin tội nghiệp / đã bị / ho rồi hả? Ho hen, hức hức / Nấc lên, nấc xuống? Gọi là nấc cục, nấc cục)
 
Bài thơ còn lại, mang tên “Angelica,” ý nghĩa hơn một chút.
The name was lazy & lovely
But the name was not the whole of her,
There was the body & the soul of her.
Angelica Angelica.
The Angel name
But oh the shame
Drink she took to,
Dadie too,
Fellow Dadie,
Oh how shady
To sport with Dadie,
And the tangled yellow hair!
 
(Chat GPT dịch:
Tên nàng vừa lười nhác, xinh,
Nhưng đâu trọn nghĩa bóng hình nàng đâu.
Angelica, tên nhiệm màu,
Thiên thần một cõi, ngập sầu lòng ai.
Rượu nàng uống, chẳng ngần ngại,
Cùng Dadie nữa, một bài hợp tan.
Dadie, bạn hữu đa đoan,
Vui đùa vẩn đục, tóc vàng rối vương.
 
 
Trong bài thơ, “Dadie” là biệt danh của George Rylance, một nhà thơ và học giả nghiên cứu về Shakespeare, và cũng là bạn thân của Woolf. Dadie thường xuyên lui tới nhà Woolf; và chuyện mà các cô, các dì thường làm là: chọc ghẹo cháu gái khi con bé phải lòng ai đó. Oliver cho biết: “Những bài thơ này cho thấy Woolf cũng khá hài hước, thích tận hưởng niềm vui khi gần gũi và tinh nghịch trêu ghẹo bọn trẻ.
 
Theo Oliver, Virginia Woolf không có con cái của riêng mình, và đây là “vết thương lòng” của bà. Nhưng những bài thơ mới được phát hiện đã cho thấy mối quan hệ sâu sắc và tình cảm mà bà dành cho gia đình của mình.
 
Về phần Oliver, hành trình khám phá này giống như một cuộc điều tra đầy thú vị. Từ việc phát hiện các lá thư, giải mã chữ viết tay của Woolf, đoán thời gian sáng tác, cho đến tìm hiểu nhân vật “Dadie” là ai – là công việc bất ngờ nằm ngoài kế hoạch nghiên cứu ban đầu của bà. Nhưng Oliver không hề phiền lòng vì sự “lạc lối” này. Bà chia sẻ: “Nghiên cứu kiểu này rất dễ gây nghiện. Và đây cũng chính là một trong những niềm vui của công việc nghiên cứu tài liệu lưu trữ.
 
Nguồn: “Newly discovered poems show Virginia Woolf as a fun aunt” được đăng trên trang NPR.org.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi ngày bạn cảm nhận được nhiều nhịp đập của những trái tim khác nhau. Bạn thông minh hơn và hiểu biết hơn vì những người tốt lành chiếu ánh sáng của họ lên đường đi của bạn. Bạn sống một cuộc đời giàu có vì những ngôi nhà của người khác bạn được ghé thăm, bữa ăn tối của họ bạn được mời tới. Những món quà quý nhất mà tôi nhận được trong đời đều đến từ người nghèo khó.
Đời sống thật của bạn cũng thú vị không kém gì một bộ phim trinh thám hay cuốn tiểu thuyết diễm tình. Tôi không cho rằng văn học hay phim ảnh hay mạng xã hội là không cần thiết. Tôi chỉ nghĩ đời sống thật của bạn hiện đang bị quên lãng. Hãy trở về chính căn phòng của mình, nhìn mặt người bên cạnh, trò chuyện. Hãy pha ấm trà nóng, chọn cái áo thật đẹp, hãy uống tất cả những tách trà buổi sáng của đời bạn. Nhìn thật lâu những nan hoa của chiếc xe đạp chạy trên đường. Chẳng để làm gì cả.
Tháng đầu tiên của năm 2025 đang trôi qua. Nhiều câu hỏi đang hiện ra trên các trang báo. Thế giới có thể sẽ bình an hơn? Dân tộc Palestine có thể sẽ được phép cho lập quốc? Ukraine có thể đã tới gần ngày ngưng bắn? Biển Đông sẽ ngưng sóng gió? Cuộc chiến Đài Loan sẽ thoát được? Nam Hàn và Bắc Hàn sẽ làm hòa với nhau? Chúng ta không mong đợi phép lạ hiện ra cho thế giới này, chỉ mong đợi năm 2025 đỡ bất an hơn. Nếu không chấp nhận những dị biệt của nhau, để cởi mở với những tư tưởng đa nguyên hơn, thế giới này sẽ cứ mãi bất an. Nỗi lo lớn nhất của nhân loại là chiến tranh. Lời chúc cần thiết nhất cho nhân loại hiển nhiên phải là hòa bình, bởi vì trong mấy năm qua, tuy chưa nổ trái bom hạt nhân nào, mà hầu hết các nơi ở Gaza và Ukraine đã trở thành gạch vụn. Đó là chưa kể tới thiệt hại về nhân mạng, khi một người chết đi, là một gia đình đau đớn, và cả một cộng đồng lay chuyển. Đôi khi chúng ta mong chờ phép lạ để thế giới hòa bình.
Ông đồ Nhuận Tâm cho biết, Theo lời mời của Thượng Tọa Thích Minh Tâm, trong ngày Mùng Một Tết Ất Tỵ (29 Tháng Giêng Dương Lịch), ông sẽ có mặt tại Tịnh Xá Giác Lý (11262 Lampson Ave, Garden Grove, CA 92840) viết tặng chữ cho bà con du Xuân tại đây.
Phát thanh viên Nhã Lan của kênh truyền hình Hồn Việt TV (Orange County, CA) nói chuyện với nhà văn / nhà thơ Trịnh Y Thư về văn chương và các điều khác...
Lũ con cháu chúng tôi sang thăm cô Nhã chú Từ ở thành phố Malmo, miền Nam Thụy Điển, vào khoảng giữa tháng 10 2024. Có chúng tôi về, cô chú vui lắm và thường cùng chúng tôi ra ngoài dạo phố, ngắm cảnh, ăn uống. Trong một buổi chiều đi uống cà phê, chúng tôi chụp được tấm hình cô chú nắm tay nhau đi dạo trong một công viên thanh bình, khi trời đất vào thu, dưới ánh nắng nghiêng nghiêng của buổi hoàng hôn cuối ngày. Chúng tôi đặt tên tấm hình đó là “Vẫn nắng vàng dù buổi chiều của đời”, là câu đầu tiên trong bài hát Vầng Trăng Xưa, chú Từ sáng tác trong trại giam Hàm Tân vào năm 1985.
Tác phẩm Drei Kameraden (Three Comrades) năm 1936 của văn hào Đức, Erich Maria Remarque (1898-1970) Tâm Nguyễn dịch với tựa đề Chiến Hữu, nhà xuất bản Kinh Thi ấn hành năm 1972, gồm 28 chương dày bảy trăm trang. Đệ Nhất Thế Chiến, Remarque ở tuổi 19, bị động viên vào Quân Đội Hoàng Gia Đức, thuyên chuyển về Mặt Trận Miền Tây (The Western Front), bị thương vì các mảnh đạn bắn vào chân trái, tay phải và vào cổ, nên được tản thương về bệnh viện, điều trị cho đến khi chiến tranh kết thúc rồi được giải ngũ khỏi Quân Đội Đức. Sau khi chiến tranh chấm dứt Remarque bị ám ảnh bởi các cảnh tàn phá của chiến tranh, thân phận con người, người lính trong và sau giai đoạn bi thương của lịch sử.
Nguyễn Du là tác giả của “Truyện Kiều” và nhà văn người Đức Johann Wolfgang von Goethe là tác giả kịch thơ “Faust”. Nguyễn Du được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào" và được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới” vào năm 2013 cùng 107 danh nhân khác. Nếu người Việt tự hào về Nguyễn Du thì người Đức cũng rất tự hào về nhà văn lớn của họ là Goethe. Theo Viện Nghiên cứu xã hội và phân tích thống kê Đức (Forsa), Geothe được xếp đứng hàng đầu trong danh sách „Những người Đức vĩ đại nhất mọi thời đại“ [1]. Sau đó mới đến vị thủ tướng đầu tiên của Cộng Hòa Liên Bang Đức là Konrad Adenauer (1876-1967) đứng hạng nhì và đứng hạng thứ ba lại là nhà khoa học gia Albert Einstein (1879-1955), cha đẻ của Thuyết tương đối.
Với tài năng hội họa, văn, thơ, và nhất là tấm lòng và ý chí bền bỉ với văn học nghệ thuật, Khánh Trường đã chinh phục một số lượng độc giả và giới thưởng ngoạn nghệ thuật lớn, từ hải ngoại về đến trong nước, từ nhiều thập niên qua, và có lẽ Ông sẽ mãi được nhớ đến trong văn sử Việt là người khai phóng một nền văn học hậu chiến ở hải ngoại và trong nước qua tờ báo văn học Hợp Lưu. Sau ba cơn tai biến Ông đã phải mang nhiều bệnh tật, nhưng sự ra đi của ông vào cuối năm 29 tháng 12, 2024 vừa qua vẫn gây bàng hoàng đối với những người thân yêu và mến mộ ông. Nỗi niềm thương tiếc này được biểu hiện bằng đôi lời chia biệt với ông và gia đình từ khắp nơi. Việt Báo trích đăng lại.
Như anh có lần tâm sự, thủa 13, anh đã bỏ quê nhà Quảng Nam, lên Đà Lạt, sống đời lang bạt, ăn bờ ngủ bụi, thậm chí “biết tình yêu gái điếm” dù còn non choẹt. Rồi anh xuống Sài Gòn, không muốn tiếp tục làm du đãng, anh đăng lính, dù chưa đủ tuổi. Có sao đâu, chiến tranh đang lên cao điểm mà, quân đội cần lính, nhất là lính Dù, những người lỳ lợm, can đảm, tự nguyện. Những năm chiến trận, đúng châm ngôn “Nhẩy Dù cố gắng”, anh sống trọn với đồng đội, với màu cờ sắc áo. Bị thương nhiều lần, anh buộc phải giải ngũ. Đời sống dân sự chưa được bao lâu thì “xẩy đàn tan nghé”, ngày 30 Tháng Tư 75, anh bị “bên thắng cuộc” liệt vào hàng ngũ “bên thua cuộc”. Vì là cấp hạ sĩ quan, anh không chịu chung số phận như hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức, bị đầy đọa nhiều năm tháng trong các trại tù mà chế độ mới gọi bằng mỹ từ “cải tạo”. Nhưng anh vẫn bị nghi kỵ, bị phân biệt đối xử ngay chính trên quê hương mình.
Viet Bao Podcasts
Tạp Chí Truyền Thanh
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.