Hôm nay,  

Tác Giả Trở Về

15/11/202400:00:00(Xem: 2271)

tac gia tro ve 

Từ bên trong, hai du kích quân bước ra đường, một anh nâng súng lên tằm bắn, hướng về chiếc xe hơi đang tiến đến. Anh kia ra hiệu cho xe dừng lại.
Chiếc xe dừng ven lề, người lái hạ cửa kính.

 _”Bước ra. Đưa giấy tờ đây.”
_ “Út, mày trông nó có giống hình thằng xịa trong hồ sơ không?” _ “Bộ râu y hệt. Chắc nó.”
_ “Tên gì?” – “Trần Bá Dũng.” _ “Láo. Tên gì?” _ “Trần Bá Dũng.” _”Láo. Nghề gì?” _ “Nhà văn.” _ “Láo. Nhà văn không phải nghề.” _ “Tôi dịch sách và viết truyện.” _ “Láo thật. Mày tên là Robert Lương. Làm tình báo cho Mỹ Ngụy. Bọn tao đã có hồ sơ đầy đủ. Quì xuống.”
_ “Út, trói  lại. Xét giấy tờ.” _ “Em không biết đọc. Anh Tư đọc giùm.” _ “Tao chưa đến trường. Mày mang vào anh Tổng xem. Thằng kia, nhúc nhích, tao bắn bỏ.”
Út đi vào căn nhà tranh sau khu vườn rau khô đét. _ “Anh Tổng, bắt được thằng xịa Robert.” _ “Thật không? Đưa hình tao coi.” Tổng mở hồ sơ.
_”Nó có nhiều giấy tờ. Em không biết chữ. Anh đọc đi.” _ “Ai nói mày tao biết đọc? Địt mẹ. So hình thôi. Hàm râu giống như đúc. Thằng này mang kính cận, trông hơi già hơn.” _ “Em nghe nói bọn xịa hóa trang giỏi lắm.” _ “Giỏi? Địt mẹ. Gặp cú vọ tao cũng phải chết. Nhìn đây, ánh mắt này và ánh mắt trong hồ sơ giống nhau như một. Đầy lửa hận thù. Đúng. Chỉ có hận thù mới phản bội quê hương.”
 _ “Bây giờ mình làm sao?” _ “Mang nó ra bờ suối. Bắn. Bỏ xác xuống nước. Các việc khác tao báo cáo cấp trên.” _ “Vâng, anh Tổng.” 
Mấp mé trên mô đất bờ suối. Dũng quì mặt hướng về dòng nước. Sau lưng hai tên du kích nâng súng lên nhắm. _ “Út, mày nhắm vào đâu vậy?” _ “Em bắn súng lần đầu. Nhắm nó ở đỉnh đầu ruồi, phải không anh?” _ “Cứ hướng mũi súng vào nó là được rồi. Một, hai, ba, bắn.”

Vang. Hai phát súng nổ.

Thành phố ven quốc lộ cách đó năm cây số, trong khách sạn nhỏ, Hồng chờ người yêu đến hẹn. Đã muộn gần một ngày. Từ hồi hộp sung sướng chuyển sang lo lắng nghi ngờ, giờ đây, thất vọng hoàn toàn xâm chiếm với cảm giác rủ liệt.

Trước khi rời Sài Gòn, Dũng nhắn tin cho nàng, sau đó biệt tích. Không ai trả lời điện thoại. Hồng đã viết thư để lại cho Ali, giải thích sự ra đi. Vì mẹ, nàng lấy Ali, vì tình, nàng theo Dũng. Không thể quay trở về.

Ali cưỡi lên mông Hồng, cảm tưởng cưỡi ngựa.  À, Mohammed bin Salman giật cương, ngựa hồng hí lên. Giật ngược tóc, “مؤلم، مؤلم” (Ái da, đau.) Quất roi phóng tới. Chạy chồm chồm trên sa mạc. Hồng kinh sợ lối làm tình Trung Đông này, nhưng tiền, vàng, kim cương của Ả Rập đã giúp nàng quen dần. Đến một ngày, Hồng  hí theo دعونا نركض بسرعة (Chạy nhanh nhé.) Ali Al-Jabbar mê mẩn nàng không phải vì thân xác, vì Hồng không thể sánh với những thiếu nữ Ai Cập, những trái táo múa lúc lắc từ dưới trồi lên chận giữa cuốn cổ đàn ông. Còn Hồng, dù sao, dân miền biển cũng không thể hòa nhập với dân cồn cát.

Thú vui thân xác dần rút lui, nhường cho thú vị tinh thần. Hồng trở thành độc giả say mê. Thư viện Sài Gòn nơi nàng lui tới thường xuyên. Nơi chữ nghĩa thấm nhập thân xác, ở lứa tuổi xuýt xoa Sầu riêng chín mùi, tỏa theo hương là chất trí tuệ thanh sáng. Tôn nữ Hương Hồng trở thành trung tâm thư viện, trung tâm mắt đàn ông, quyến rũ siêu tưởng tượng. Hồng đã gặp Dũng, nhà văn, dịch giả, trong lần anh ra mắt sách ở đây. Một người khác ngược với Ali từ ngoài xã hội lên đến giường ngủ.

Dũng nói: _ “Em đọc nhiều đủ, có thể từ độc giả trở thành tác giả.”

Hồng trả lời: _ “Không, em chỉ muốn làm độc giả, đọc những tác phẩm hay của các tác giả như anh.”

_ “Chắc em đã nghe nói tác giả đã chết.”
_ “Roland Barthes, phải không?”
_ “Đúng, nhưng có thể ông ta lầm lẫn vì trong thời đại đó, người ta lo sợ sức thống trị của tác giả.”
_ “Anh là nhà văn thành công. Độc giả yêu mến sách anh viết. Hiện giờ, anh là thần tượng.”
_ “Các nhà văn học nổi tiếng nói, không phải anh, mà chính người đọc như em đã cho phép tác phẩm nâng anh lên thần tượng. Giờ này, nếu không nhờ độc giả, anh vẫn là nhà văn tầm thường vì tác phẩm không ai đánh giá cao, dù chưa chắc sự thật đã như vậy.”
_ “Em biết, anh công kích những người theo các học thuyết phê bình kiểu mới. Em không hiểu rõ họ. Em chỉ là người yêu đọc sách. Em cảm thấy, ngày càng phức tạp. Sách viết một, giải thích ý nghĩa thành mười, thành trăm, mệt mỏi quá.”
_ “Chiều nay anh đón em đi ăn tối.”
_ “Không được. Ali ở nhà đêm nay. Mai anh ta đi Cairo để ký hợp đồng mới. Mình có vài ngày, nhớ đón em.”

Hồng hôi nách từ trẻ. Khi làm vợ Ali, mùi hôi càng giết người. Nàng nghĩ vì ăn nhiều món Trung đông, nhiều mỡ cừu, mỡ lạc đà. Chất hôi tìm đến trú ẩn những nơi rậm rạp dù Hồng tắm rửa bằng thuốc đặc biệt, vẫn không trốn nó được. Dùng những loại nước hoa hảo hạng chỉ làm thêm khó ngửi, giống như tội phạm thứ dữ đang thao túng bằng đạo đức giả. Đành chịu. Lý thuyết hôi là hôi vớí người này nhưng thơm với người kia. Thực hành hôi là hít thở hôi, lâu ngày thành quen, thiếu hôi như đèn thiếu dầu. Tất cả thứ gì hiện diện đều có lý do. Hôi hiện diện nơi Hồng có định mệnh sâu sắc hơn chỉ mùi hôi.

Vài ngày qua, Hồng cố nán lại khách sạn chờ tin. Đêm trước, tủi thân tâm sự với mẹ. Qua điện thoại, tiếng mẹ la rầy, an ủi xa vắng như tiếng người lạ. Nhìn nắng chiều kéo xa dần chậu kiểng, hoa đỏ lá xanh, phất phơ ý tưởng, phải chăng có hoa đỏ máu chen vào lá đời xanh, toàn cảnh mới đẹp? Nắng đi, hoa lá chìm bóng đen. Tiếng gõ cửa cấp bách. Chưa kịp đến, bàn tay đập cửa vội vã. Mở cửa. Hồng ngớ cả người. 

Vật chất đen, loại vật chất có khả năng quyến rũ người sử dụng phát triển bản năng, nơi chứa đựng nhiều thú tính và phần cái tôi xấu xí. Hồng ngoi lên từ vật chất đen, giống tất cả những ai khác, luôn muốn trở về nơi sở thích và thú vui bất tận bất cần đời. Cửa mở ra, vật chất đen đứng đó. Hồng nhìn Ali, tê cứng, chờ một cơn bão cấp bảy ập tới.

Nhưng, không.

Chiếc giường vua khá lớn. Hai người quấn thành vệt dài da thịt, cử động, lăn lộn, bung ra, nhập lại. Sau khi hít thở hết chất hôi ở những nơi giữ hôi trên người Hồng, Ali tụt dần xuống chân, nơi bí mật của Hồng được che giấu tất cả đàn ông, ngoài trừ Ali. Hồng có ngón chân thứ sáu ở bàn chân trái. Từ nhỏ bị bạn chọc phá. Lớn lên một số con trai tránh né, một số tỏ vẻ không quan tâm, nhưng mắt họ nói lên ý nghĩ khác, thậm chí, có người e sợ, dù không thể bị lây. Mặc cảm ngón chân thứ sáu chỉ có Ali đã giúp nàng vượt lên. Mỗi lần sau khi làm tình, Ali đều thích thú hôn hít ngón chân thừa này. Mỗi lần như vậy Hồng đều cảm động. Ali thì thầm, vuốt ve bàn chân: _ “Cảm ơn mẹ em đã giúp anh tìm ra khách sạn. Anh có thể thiếu em nhưng anh không thể thiếu mùi của em. Hồng à, về với anh.” Nàng cảm xúc mũi lòng.

Trước khi tác giả chết, họ có tiểu sử và đời sống phơi bày trên sách vở báo chí. Người đọc yêu mến sách và đời tư tác giả. Tâm lý, tình dục, tình ái, những gì họ làm đều được công bố. Tác giả sống động, huy hoàng và cường điệu. Sinh ra nhiều thứ giả tạo, đó là lý do Barthes muốn giết họ: Cái Chết Của Tác Giả. 

Trước khi qua đời vì đầu óc ngu muội tạo hành động lầm lẫn, Dũng thuộc loại nhà văn mà Barthes muốn giết. Năm 1967, Barthes bắt đầu rao giảng một niềm tin mới, gạt bỏ tác giả ra khỏi tác phẩm. Giá trị của tác phẩm cần sự vắng mặt của tác giả. Niềm tin đó phát huy cuồng phong, sinh tạo những trào lưu làm chữ nghĩa mù mịt đi vào nơi tùy tiện diễn nghĩa. Đa số người đọc không còn thú vị đối với sách vở. Trí tuệ kém ánh sáng chữ, chìm dần vào  vật chất đen, mê muội rồi ngu muội. Chính sự ngu muội đã giết chết tác giả. Chính sự ngu muội đã giết chết nhà văn Trần Bá Dũng.

Dũng loạng choạng, hai phát súng nổ, rơi xuống dòng suối. Cảm giác một phần đầu vỡ ra như bị va vào đá, nước ngập mặt, máu đỏ một vùng. Trôi, trôi đi. Mê, chập chờn. Chạm một vật gì, Mê sảng, bản năng sinh tồn ôm chặt cứng. Trôi, vật vờ.  

Tôi thấy phiêu bồng giữa bóng tối lẫn sáng mờ. Không cảm thấy đau đớn. Chỉ thấy hình ảnh tiếp nối nhau hiện ra từng khúc đời, không theo thứ tự, khúc này chồng lên khúc kia. Lúc trẻ, lúc lớn. Lúc năm này, lúc tháng nọ. Không có âm thanh. Chỉ hình ảnh nhưng nghe được ý nghĩa. Lúc chìm vào tối đen, lúc ngoi ra vùng mờ. Có lúc mọi hình ảnh xáo trộn. Có lúc hình ảnh liên tục như đoạn phim ngắn. Tự nhiên, tôi biết mình sắp chết. Tôi tự nói, bình tĩnh, chết là hết, đừng sợ, xem thử ra sao. Tôi lại biết mình là nhà văn đang dự định phục tùng độc giả. Định chung sống với Hồng. Rồi tôi chìm vào bóng tối.

Trần Bá Dũng là nhà văn có lý tưởng văn học. Sống độc thân và tin rằng cô độc là điều kiện cần thiết để sáng tác những tác phẩm độc đáo trong thời đại mà tác phẩm rẻ bèo, mọc nhanh như nấm rơm, người đọc phê phán tùy nghi thuận tiện bằng vài nắm văn chương trong túi óc. Đọc không phải để phê bình. Đọc để thưởng thức điều hay ý đẹp, nếu không thể tha thứ thì quên đi điều dở, ý cạn, như vậy, chất hay đẹp mới thấm vào xương tâm, nở hoa nhận thức. Dũng nghĩ, từ ‘Cái Chết Của Tác Giả’ Barthes đã tạo ra một thứ tôn giáo văn học tôn thờ cái tôi tri thức một cách mù. Tác giả không thể vắng mặt trong tác phẩm, không thể để cho người khác tự do phê chuẩn. Sự tự do, đúng, độc giả và phê bình có quyền tự do, nhưng là tự do có giới hạn.

Ngoi ra vùng sáng mờ, tôi thấy mình đã lầm lẫn khi không hiện diện trong chữ nghĩa. Văn chương là đồng cảm, đồng sáng tác, không phải cho không, không phải bỏ thí. Tôi thấy được trong lờ mờ nào đó, có những bàn tay níu kéo mình ra khỏi nước. Cảm giác đau đớn lại bùng nổ trên đầu.(2020)

Gần một tháng sau, từ buôn mọi, Dũng xuống núi. Hai dân làng du kích chưa từng tập bắn, hai phát đạn đều không trúng. Dũng rơi xuống vì hoảng sợ. Vết thương trên đầu do va vào đá trong lòng suối không sâu lắm.

Những ngày dưỡng thương ở buôn A Mang, tôi rời xa vòng sống chong chóng rộn ràng. Lúc đó, tưởng là thật, khi nhập vào thiên nhiên, mới nhìn thấy nó giả. Một người có thể làm tất cả những gì mình muốn mà không bận rộn. Cây cối, chim chóc, thú vật trong rừng làm hết mọi việc phải làm trong một ngày, tự nhiên, thoải mái, vượt qua trở ngại, vấp phải khó khăn, tự nhiên, không bận rộn. Tự nhiên là phương thuốc chữa bệnh chong chóng. Bận rộn là cách nói giả tạo để che đậy cái muốn không cần thiết vẫn phải làm. Bận rộn là cách làm điệu cho giá trị sống, mà cái tôi tự cho mình quan trọng.

Phía sau buôn, triền núi xả dốc xuống thung lũng, một phiến đá nhô ra, tôi thường ngồi ở đó với bình minh, với hoàng hôn, với đêm khuya. Những suy nghĩ tự nhiên diễn theo tiếng chim rừng ca hót từ sớm đến tà, đủ giọng trong đục, đủ giai điệu buồn vui và ý tưởng hưởng ứng với nhạc chim như nhạc trưởng ngẫu hứng nhảy mê thần giữa dàn hợp tấu. 

Tôi sáng sủa ra những gì nhà văn phải làm.

Trả Hồng về vị trí độc giả. Kỳ vọng ôm ấp độc giả là thất vọng sẵn có. Bình thường hóa việc họ say sưa vật chất đen, thoả thuận họ hít thở bất kỳ mùi gì họ muốn. Thích hay không thích, ngưỡng mộ hay chê bai, đều cần thiết cho sự  giao tiếp sự sống của tác phẩm. Nhà phê bình là độc giả có khả năng hiểu sâu hoặc sai. Lúc trời chạng vạng, tiếng rừng biểu diễn khả năng gây sợ, tiếng gầm gừ, tiếng tru, tiếng rít, kinh nhất, tiếng cú kêu. Không có nhà nghiên cứu, phê bình, chỉ có độc giả và tác giả. Cõi văn như cõi rừng, chỉ xảy ra và cảm nhận xảy ra. Tuy nhiên, độc giả có khả năng đi quá xa, quá rộng, nếu không nhìn thấy hoặc được báo những điểm dừng. Nhiệm vụ của tác giả không chỉ sáng tạo, mà bằng cách nào đó phải tuyên bố giới hạn trong mỗi tác phẩm của mình. Tôi thường xuyên bừng theo rạng đông. Đêm làm tư duy âm u dù say đắm. Tia nắng đầu tiên trên rừng núi, nghĩa là, xuyên qua cây lá bóng đen, rọi sáng khả năng tỉnh táo. Tôi đứng dậy giản thông máu huyết, hít thở trong lành, hiểu ra không phải đêm và ngày bên ngoài mà đen và sáng bên trong.

Dũng rời núi lúc bình minh, đến đồng bằng lúc trưa, về đô thị lúc chiều sang đêm. Những thay đổi khác biệt do mắt bên ngoài nhìn thấy và mắt bên trong không đồng thuận. Dũng nhận ra ánh sáng, bóng tối đều thay đổi. Mọi người khác đi, thấy theo tia quang tuyến xuyên qua nhân vật, chỉ thấy xương. Nhân vật phải có xương sống xương sườn, nếu chỉ thịt da, trở thành  loài bò sát. Mọi thứ khác thường, Dũng cảm nhận mọi sự xảy ra cần có kết thúc ý nghĩa. Chuyện đời tuy có thật mà hư cấu trong trí tưởng tác giả. Cốt truyện hư cấu mà có thật trong tâm trí độc giả.  Sáng tác cần bản hợp tấu viết bởi nhạc sĩ tài ba, nhưng sáng tạo hay không, phải do nhạc trưởng chìm siêu nhiên: nhảy múa cấu thành cộng hưởng.
Lúc đó, tác giả trở về.

             
Ngu Yên. 2024.
Truyện 2,690 chữ,
 
[Câu truyện Tác Giả Trở Về có mục đích phục hồi vị thế của tác giả trong tác phẩm. Trên quan điểm, tác giả hiện diện như một giới hạn của văn bản, thay vì Cấu trúc luận, Hậu cấu trúc và Giải cấu trúc chỉ suy diễn từ văn bản theo ‘những biểu đạt’, để phát triển tư duy về những ‘được biểu đạt’ và giải mã vô số ‘biểu đạt tiếp diễn’. Một loại phân tích và phê phán không có điểm dừng, hầu như ra ngoài xa lắc ý muốn của tác giả và làm sai lệch giá trị của tác phẩm. Hầu hết những lời phê bình là bịa đặt, thể hiện ngôn ngữ dối, như Robert Scholes (1929-2016) đã nhận xét về khả năng ‘đạo đức giả’ trong văn học ngày nay.]

(Người đọc cũng nên tìm hiểu bài tiểu luận của Barthes để chia sẻ với tác giả cần phải sống sót trở về với người yêu, độc giả, tìm lại ‘tình yêu sự thật’ trong tác phẩm và đời sống.

Hồng, biểu tượng độc giả. Dũng, biểu tượng tác giả. Ali, biểu tượng vật chất đen, sở thích chung cho con người thế kỷ 20-21. Hai du kích, biểu tượng ngu dốt, xu hướng xa dần cái đẹp chữ nghĩa. Barthes, biểu tượng nhà phê bình.

Tôi nhấn mạnh về nghệ thuật phê bình vì cần thiết, nhưng tôi muốn nhấn mạnh hơn đến nghệ thuật sống. Sống là một tác phẩm ngôn ngữ, không có ngôn ngữ, sự sống mù trong bóng tối. Tác phẩm sống cần tác giả, độc giả và một nghệ thuật phân lý, phê bình với ‘tình yêu sự thật.’)

["Tình yêu sự thật" (The Love of Truth) là một tiểu luận của nhà phê bình văn học Robert Scholes, trong đó ông lập luận rằng "tình yêu sự thật" cơ bản là điều cần thiết cho việc thực hành phê bình văn học, mặc dù khái niệm về sự thật tuyệt đối có thể khó nắm bắt; ông gợi ý rằng việc theo đuổi sự hiểu biết và diễn giải chính xác, thay vì một sự thật duy nhất, dứt khoát, phải là mục tiêu chính của phân tích văn học.]

The Death of The Author:

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.
Anh cho xe dừng lại nơi góc đường rồi đi bộ về phía căn nhà. Tuyết đang rơi dầy đặc trắng xóa cả bầu trời, đúng là một White Christmas như nhiều người mong muốn. Những ánh đèn màu trang hoàng trước sân các nhà nhấp nháy vui tươi như đang mừng đón Chúa Hài Đồng giáng trần. Anh bước lên bậc thềm gỗ, bước rón rén đến cửa sổ nhìn qua tấm rèm mỏng, hơi giật mình sựng lại khi thấy ba mẹ con cô ấy đang dọn bữa ăn đêm Noel. Hẳn là họ vừa đi lễ về, anh thầm nghĩ. Nhìn đứa con trai mười ba tuổi và đứa con gái mười một tuổi giúp mẹ sắp xếp bày biện thức ăn trên bàn, anh thoáng chút xúc động và an tâm vì các con đã lớn, có thể đỡ đần mẹ trong nhiều việc nhà, anh cũng thấy bớt đi mặc cảm tội lỗi của mình.
Chuyện xảy ra trên một chuyến xe Greyhound. Xe đò Greyhound có vẽ con chó sói xoải cẳng phi nước đại bên hông là thứ nối liền các thành phố bên Mỹ và Canada. Nhiều người trong chúng ta chắc đã từng ngự trên những chuyến xe xuyên liên bang này. Tôi cũng đã từng xuôi ngược với Greyhound. Từ Montreal qua Washington D.C. thăm bạn bè dân thủ đô nước Mỹ như các ông Dzương Ngọc Hoán, Nguyễn Tường Đằng. Từ Vancouver qua Portland thăm ông Từ Công Phụng. Từ Seattle về Vancouver sau khi cưỡi du thuyền đi Alaska thăm mấy chú gấu tuyết. Nói như vậy để thấy tôi cũng có chút kinh nghiệm khi chen vai thích cánh cùng những người không có hoặc ngại lái xế riêng.
Hai chữ giang hồ không mấy xa lạ trong đời sống của mỗi người đều thường đề cập trong thơ, văn, điện ảnh… và cũng là câu nói thường tình với cá nhân, nhóm người trong xã hội. Tác phẩm Thủy Hử ban đầu là Giang Hồ Khách Truyện, sau lấy tên là Thủy Hử vì “căn cứ địa” Lương Sơn là vùng đầm, hồ nên Thủy Hử (bến nước). Truyện nầy qua bản dịch của La Thần và Á Nam Trần Tuấn Khải, gồm 3 cuốn, năm 1973, sau đó với Tử Vi Lang nên rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Trong truyện Thủy Hử của của nhà văn Thi Nại Am (1296-1372) ở Trung Hoa vào triều Nguyên-Mông (1295-1368), kể về câu chuyện của Tống Giang triều nhà Tống, nổi dậy kéo theo “giang hồ hảo hán” gồm 108 người đến núi Lương Sơn. Gọi là anh hùng Lương Sơn Bạc.
Thông báo thay đổi giao diện trang nhà mới của Thư Viện Hoa Sen
Tin tức các cơ sở hội đoàn thông báo cộng đồng
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.