Hôm nay,  

Như Niềm Tin Tôn Giáo, Vô Thần Cũng Có Nhiều Thuyết Khác Nhau

17/11/202300:00:00(Xem: 1798)
vo than

Có nhiều kiểu vô thần khác nhau, có thể được phân loại là không theo tôn giáo, không có tín ngưỡng và bất khả tri. (Nguồn: pixabay.com)


Hiện nay trên thế giới được cho là có khoảng 10,000 tôn giáo. Hầu hết mọi người đều quen thuộc với những tôn giáo lớn như Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, v.v… nhưng cũng có hàng trăm triệu người khác tin vào các tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng truyền thống hoặc tín ngưỡng bộ lạc.
 
Các nhà thần học, nhân chủng học và xã hội học đã giúp phân loại các tôn giáo đâu ra đó. Họ dành cả đời để phân định giữa những khác biệt nhỏ nhất, thâm cung bí sử nhất. Hình tượng, tín ngưỡng, nghi lễ, thờ cúng, cầu nguyện và cộng đồng đóng vai trò vạch ra ranh giới giữa các tín ngưỡng này.
 
Nhưng vẫn còn thiếu một cái gì đó: những người thuộc một loại triết lý vô thần nào đó. Nhóm này không hề ít. Hoa Kỳ có hơn một tỷ người, tương đương khoảng một phần tư dân số, không theo một tôn giáo nào, khiến cho ‘không tín ngưỡng’ trở thành một loại “tín ngưỡng” lớn thứ hai ở Mỹ. Ở Anh, khoảng 60% dân số không bao giờ đi nhà thờ, còn ở Na Uy hiện nay có nhiều người vô thần hơn là người có tín ngưỡng.
 
Điều đáng chú ý là không phải tất cả triết lý vô thần đều giống nhau.
 
Các loại triết lý vô thần (atheism)
 
Vấn đề của những số liệu thống kê là chúng không nói lên toàn bộ câu chuyện. Thuật ngữ “phi tôn giáo” (non-religious) rộng đến mức gần như chẳng có nghĩa lý gì. Các từ như thế tục (secular), bất khả tri (agnostic), vô thần (atheistic), nhân văn (humanistic), không có niềm tin tôn giáo (irreligious) hoặc phi tôn giáo (non-religious) không phải là những từ đồng nghĩa. Hơn một tỷ người trên thế giới thuộc các thuyết vô thần khác nhau, và sự khác biệt rất quan trọng.
 
Việc phân biệt các thuyết vô thần này không phải là việc dễ dàng, đặc biệt là vì phần lớn trong số họ không muốn được gọi là “tín đồ.” Một số người cho rằng nên mô tả phi tôn giáo như một thang đo (chẳng hạn như thang đo “khả năng có Chúa” từ mức 1-7 mà Richard Dawkins gợi ý trong The God Delusion). Nhưng làm vậy cũng chỉ như ‘con trâu đi trước cái cày.’ Không phải tất cả tôn giáo đều hướng tới khả năng xảy ra, sự chắc chắn hoặc đồng ý thừa nhận đối với các tuyên bố khác nhau (tức là không phải lúc nào cũng chăm chăm xác nhận xem vị thần, thánh nào đó có thật hay không có thật).
 
Nói rộng ra, những người vô thần có thể có ba loại: người không theo tôn giáo (nonreligious), người không tin vào tôn giáo (nonbelievers) và người bất khả tri (agnostic). Danh sách này không phải để phân biệt rạch ròi ai thuộc loại nào, vì các loại triết lý vô thần thường đan xen chồng chéo lên nhau.
 
Người không theo tôn giáo (nonreligious)
 
Loại triết lý vô thần đầu tiên có nghĩa là không theo một trong những tôn giáo truyền thống lớn.
 
Hãy xem xét Trung Quốc. Thoạt nhìn, đây là một đất nước đại đa số là không có niềm tin tôn giáo (irreligious): 91% người dân Trung Quốc có thể được gọi là người vô thần. Nhưng phần lớn dữ liệu này, cũng như trong hầu hết các cuộc khảo sát về nhân khẩu học, đều là để cho người ta tự trả lời câu hỏi. Vấn đề nằm ở chỗ hầu hết mọi người ngày nay sẽ có cách hiểu riêng về tôn giáo. Nhiều người coi đó là chính thức theo những tín ngưỡng hoặc nghi thức của các tôn giáo có tổ chức hẳn hoi. Nó có nghĩa là siêng năng đi nhà thờ, cầu nguyện năm lần một ngày, hoặc tin tưởng vào Tứ Diệu Đế (Four Noble Truths). Nhưng sự thật là tôn giáo vô cùng bao la hơn thế nhiều.
 
Quay lại với trường hợp của Trung Quốc, 91% dân số cho rằng họ là người “vô thần,” nhưng có 70% dân số thờ cúng ông bà tổ tiên. 12% tự nhận mình theo một số tín ngưỡng dân gian, và đại đa số tin vào thứ gần như là tôn giáo – “y học cổ truyền.”
 
Đối với nhiều người, “triết lý vô thần” có nghĩa là không tin vào một tôn giáo chính thức nào. Đối với một số khác, từ này có thể gần giống với từ nguyên của nó hơn, trong đó “a-theism” có nghĩa là anti-theistic belief, niềm tin chống lại thần học, hay không tin có thần thánh nào cả. Nhiều người trong số này là người theo “triết lý thần bí” – nghĩa là họ không nghĩ các hình ảnh hay ý tưởng về Chúa hoặc Phật là đúng, nhưng họ cảm thấy rằng có tồn tại một thực tế tâm linh nào đó.
 
Đó là một sự tò mò phổ biến khắp mọi nơi. Một “người vô thần” cũng có thể tin là có thiên thần, tiên nữ, nghiệp chướng, nhân quả, nghiệp chướng thiêng liêng, linh hồn, ma quỷ, âm hồn hoặc cầu cơ. Những điều này không tạo ra một tín ngưỡng hẳn hoi, nhưng chúng cũng là một dạng tín ngưỡng nào đó.
 
Người không tín ngưỡng, hay người không tin vào tôn giáo (nonbelievers)
 
Loại triết lý vô thần thứ hai là loại triết lý chống lại hoặc bác bỏ những tuyên bố nào đó về tín ngưỡng.
 
Những người vô thần kiểu này sẽ định nghĩa tôn giáo (chưa bàn tới đúng hay sai) là một tập hợp các tín điều, tín ngưỡng và những tuyên bố mà họ cho là không có thật. Đó là loại triết lý vô thần mà hầu hết chúng ta đều thấy quen thuộc và thường xuất hiện nhan nhản trên Internet.
 
Những người vô thần này sẽ nói “Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết,” “Ngồi thiền rồi bay bổng” hoặc “Thiên thần Jibril đã nói chuyện với Muhammed” đều là những điều chẳng thể chứng minh được hoặc không nên tin. Chúng là những sự thật cần chứng thực hoặc bác bỏ. Những người vô thần hiện đại như Richard Dawkins và Sam Harris, và những người cao niên hơn như David Hume hay John Stuart Mill, đều thuộc loại này. Họ chỉ ra những gì họ cho là không đúng, mâu thuẫn hoặc phi lý trong những gì tôn giáo dạy.
 
Người theo triết lý vô thần “không tín ngưỡng” thường sẽ tấn công vào các giá trị của một tôn giáo hoặc thậm chí chính tôn giáo đó. Họ cho rằng tôn giáo là nguyên nhân dẫn đến sự nhẫn tâm, thành kiến, phân biệt chủng tộc, kỳ thị phụ nữ, diệt chủng, bạo lực, tàn ác, mê tín, thiếu hiểu biết… vậy nên phải dẹp bỏ tôn giáo.
 
Người theo thuyết bất khả tri (agnostic)
 
Loại triết lý vô thần thứ ba là vô thưởng vô phạt. Nó được gọi là thuyết bất khả tri.
 
Nếu chúng ta định nghĩa triết lý vô thần là một tuyên bố về niềm tin – cụ thể như là “Tôi chắc chắn 100% rằng Chúa không tồn tại” – thì thật sự sẽ có rất ít người vô thần. Nhiều kiểu người “không tín ngưỡng” khá quan tâm đến khả năng và việc xác minh những chuyện liên quan đến tín điều. Tuy nhiên, có nhiều chuyện thuộc về siêu nhiên không thể loại trừ hoàn toàn.
 
Con người là sinh vật bằng xương bằng thịt, các giác quan có thể sai sót và sự thông tuệ có thể bị ảnh hưởng. Như vậy, rất ít người khẳng định chắc chắn về tính siêu hình và tính vô cực. Rất nhiều người tự nhận mình là người vô thần nhưng thực ra lại là người bất khả tri. Họ có thể nghĩ rằng tôn giáo rất khó có thể đúng (như Dawkins đã nghĩ) hoặc chấp nhận các khả năng khác nhau ở mức độ nào đó. Những người khác ngừng phán xét – dù sao cũng không có gì chứng minh được, vậy hà cớ gì phải một mực khăng khăng?
 
Như William James đã lập luận trong bài tiểu luận “The Will to Believe,” người bất khả tri kiểu này (hay “người hoài nghi”) cũng tương đương với triết lý vô thần. Nếu chúng ta sống qua năm tháng mà không quan tâm đến tôn giáo, không sống một cuộc đời của tín hữu, thì nó giống “như thể chúng ta đã chọn cách không tin.” Sự khác biệt giữa những người bất khả tri và những người vô thần chỉ đơn giản là sự khác biệt về nhận thức luận. Đối với cả hai, đơn giản là tôn giáo không quan trọng.
 
Học cách nói về hoài nghi
 
Một nửa số người trưởng thành ở Hoa Kỳ “hiếm khi hoặc không bao giờ” nói về tôn giáo với người ngoài. Ở Anh, tôn giáo là một chủ đề trò chuyện mang tính riêng tư cá nhân đối với hầu hết mọi người.
 
Nhưng tín ngưỡng của chúng ta, hay tôn giáo, là những điều quan trọng nhất về con người chúng ta. Việc chia sẻ và thảo luận với người khác không chỉ giúp chúng ta hiểu bản thân mình hơn mà còn mang tất cả mọi người lại gần nhau hơn. Xung đột thường nảy sinh từ sự hiểu lầm và thiếu hiểu biết, và rất nhiều sự bất hòa có thể tránh được bằng đối thoại nhằm tìm cách làm sáng tỏ niềm tin của mọi người.
 
Và cũng có một chủ đề thú vị khác: sự hoài nghi. Chúng ta đều có niềm tin, nhưng chúng ta cũng có những hoài nghi. Ngay cả những người theo triết lý hữu thần cũng bác bỏ sự tồn tại của một số vị thần, phải chăng sự hoài nghi cũng chính là một phần của niềm tin.
 

Cung Đô sưu tầm và biên dịch

Nguồn: “Not believing is the second biggest “belief” in the U.S.” được đăng trên trang bigthink.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra. Cả hai đều do con người tạo ra và đều là thảm họa cho nhân loại! Nhưng thảm họa này không phải là điều không thể giải quyết được, bởi lẽ những gì do con người gây ra cũng đều có thể do con người ngăn chận và hóa giải được. Cụ thể là hàng chục năm qua, Liên Hiệp Quốc đã nỗ lực kêu gọi, bằng các nghị quyết, các quốc gia cố gắng thực hiện các biện pháp giảm khí thải nhà kính, với các chính sách cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, gia tăng sản lượng xe chạy bằng điện năng, v.v… Dù kết quả chưa đạt được mức yêu cầu, nhưng cũng đã gây được ý thức và thể hiện quyết tâm của cộng đồng thế giới trong việc giải quyết thảm họa của khí thải nhà kính.
Hãng giày Nike từng dự định ra mắt mẫu giày thể thao đặc biệt với tên gọi Air Max 1 Quick Strike Fourth of July nhân dịp kỷ niệm Ngày Độc Lập. Trên mẫu giày này có in biểu tượng quốc kỳ ban đầu của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ với 13 ngôi sao xếp thành vòng tròn – còn gọi là cờ Betsy Ross. Tuy nhiên, bất ngờ thay, trước khi sản phẩm được bày bán, Nike đã rút mẫu giày này khỏi thị trường sau khi nhận được lời khuyên từ đại sứ thương hiệu và cầu thủ NFL Colin Kaepernick, cho rằng biểu tượng này mang tính xúc phạm vì có liên quan đến thời kỳ đen tối của Hoa Kỳ. Sự việc này đã làm dấy lên cuộc tranh cãi nảy lửa với nhiều ý kiến trái chiều.
Chuyện lẽ ra chẳng có gì. Cho đến khi bị chính trị xâm đoạt. Vào một ngày mùa hè, Erika Lee, 35 tuổi và là một cư dân của thành phố Springfield, tức Cánh Đồng Xuân, thuộc tiểu bang Ohio, đưa lên trên trang Facebook của cô một tin đồn bâng quơ cô mới nghe được. Điều cô nghe được là con mèo của một người hàng xóm đã biến mất, và rằng có thể một trong những người nhập cư Haiti hàng xóm của cô đã bắt con mèo đó. Cô đưa tin đồn đó lên trang Facebook của mình.
Tự cổ chí kim, những hiểu biết và phát triển mới trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật thường khiến chúng ta vừa thấy thú vị và ấn tượng, vừa thấy lo lắng, sợ hãi. Mới đây, OpenAI đã dự đoán rằng trong vòng 10 năm tới sẽ xuất hiện “siêu trí tuệ nhân tạo” (Artificial superintelligence). Để chuẩn bị, hãng này đang tập trung xây dựng một đội ngũ chuyên gia mới, và dành 20% tài nguyên điện toán của mình để đảm bảo rằng các hệ thống AI sẽ hoạt động phù hợp và tôn trọng các tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức của con người.
Tháng 9 là tháng có nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Sau đây là một số ngày đáng chú ý. 16 tháng 9. - 1994 - Ngày Ozone thế giới, nâng cao nhận thức về tầng ozone3. - 1970 - Jimi Hendrix qua đời vì dùng thuốc quá liều. - 1620 - Mayflower khởi hành đến Tân Thế giới. Con tàu Anh được gọi là Mayflower khởi hành từ Plymouth trong chuyến hành trình đến Châu Mỹ. Trên tàu có 102 hành khách đang tìm kiếm cuộc sống mới ở Tân Thế giới. Con tàu mất 10 tuần để băng qua Đại Tây Dương trước khi thả neo gần Cape Cod, Massachusetts.
Hiếm ai có thể hình dung cơn bão tin giả (fake news) hoành hành khắp nước Mỹ trong tám năm qua, từ cuộc bầu cử 2016, lại thổi đến từ Veles – một thị trấn xa xôi nằm phía tây nam châu Âu, ở North Macedonia, trên dòng sông Vardar êm ả. Không nói cũng không ai biết. Những câu chuyện trong bóng tối này mãi mãi không bước ra ánh sáng, hoặc cũng chỉ rất ít người biết đến, thấu rõ đường đi nước bước của thánh địa tin giả này, cho đến khi cuốn sách “The Book Of Veles” của nhiếp ảnh gia Jonas Bendiksen được xuất bản. Ông là người Na-Uy, thành viên của hội nhiếp ảnh danh giá Magnumphoto.
Có nghiên cứu đã chỉ ra rằng sắc đẹp sẽ mang lại lợi thế trong các mối quan hệ, học tập và công việc. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu việc “không được đẹp đẽ” không chỉ là một điều bất lợi mà còn bị coi là phạm pháp? Từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, ở Hoa Kỳ từng có các luật gọi là “luật xấu xí” (ugly laws), cấm những người có vẻ ngoài “khó coi” xuất hiện ở các nơi công cộng.
Dự án 2025 đề ra những thay đổi sâu rộng trong toàn bộ chính phủ liên bang, đặc biệt trong chính sách kinh tế và xã hội, và vai trò của chính phủ và các cơ quan liên bang. Trong những thay đổi đó có cả việc cắt giảm tài trợ cho Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (DOJ), tháo dỡ cơ quan điều tra FBI và Bộ An ninh Nội địa, hủy bỏ các quy định về môi trường và biến đổi khí hậu để giúp gia tăng sản xuất nhiên liệu như dầu hỏa, cùng loại bỏ các Bộ Giáo dục và Thương mại ra khỏi nội các chính phủ. Hãng thông tấn Associated Press có một bài tóm tắt song rành mạch những chương trình của Dự án 2025 đối nội cũng như đối ngoại, tại đường dẫn này. Bao gồm trong Dự án 2025 cũng gồm cả việc lập tức dùng Đạo luật nổi dậy năm 1807 để tổng thống có thể ra lệnh cho quân đội vào dẹp các vụ biểu tình chống đối chính phủ, cùng chỉ đạo Bộ Tư pháp truy lùng các đối thủ của ông Trump. Chính ông Trump cũng đã từng tuyên bố với những người ủng hộ ông là ông là người sẽ giúp họ phục hận. Theo luật hiện hành, quân đội không đượ
Nghèo đói là yếu tố quyết định mạnh mẽ của bệnh Lao. Môi trường sống và làm việc đông đúc và kém thông gió thường liên quan đến nghèo đói, tạo thành các yếu tố gây nguy cơ trực tiếp cho việc lây truyền bệnh lao. Suy dinh dưỡng cũng là một yếu tố nguy cơ quan trọng để bệnh phát triển. Nghèo đói lại cũng liên quan đến tình trạng kém kiến thức về sức khỏe và từ đó thiếu những sự bảo vệ sức khỏe trong đời sống hàng ngày dẫn đến nguy cơ tiếp xúc và truyền bệnh.
Trong hai ngày Thứ Bảy & Chủ Nhật 17 & 18/08/2024, tại Bowers Museum, Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt phối hợp cùng Trung Tâm Việt Nam Texas Tech University, Trung Tâm Nghiên Cứu Việt - Mỹ University of Oregon đã tổ chức hai buổi triển lãm và thảo luận về hai chủ đề: Cải Cách Ruộng Đất Miền Bắc Việt Nam và Cuộc Di Cư Năm 1954. Khoảng 1,000 lượt người đã đến tham dự hai sự kiện về lịch sử từ bảy thập niên trước. Có thể nói rằng lâu lắm rồi tại Thủ Đô Người Việt Tị Nạn mới có một sự kiện lịch sử được tổ chức với qui mô lớn và công phu như thế. Động lực nào đã khiến ba tổ chức chuyên nghiên cứu lịch sử cận đại Việt Nam cùng nhau tổ chức sự kiện này? Ông Châu Thụy, Giám Đốc Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt nói lời khai mạc, chào mừng mọi người đến với cuộc triển lãm và hội thảo, để cùng nhau ôn lại, nhìn theo những góc nhìn mới về hai sự kiện lịch sử vẫn còn ảnh hưởng đến người Việt cả trong nước lẫn hải ngoại đến tận ngày hôm nay.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.