Hôm nay,  

Như Niềm Tin Tôn Giáo, Vô Thần Cũng Có Nhiều Thuyết Khác Nhau

17/11/202300:00:00(Xem: 1247)
vo than

Có nhiều kiểu vô thần khác nhau, có thể được phân loại là không theo tôn giáo, không có tín ngưỡng và bất khả tri. (Nguồn: pixabay.com)


Hiện nay trên thế giới được cho là có khoảng 10,000 tôn giáo. Hầu hết mọi người đều quen thuộc với những tôn giáo lớn như Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, v.v… nhưng cũng có hàng trăm triệu người khác tin vào các tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng truyền thống hoặc tín ngưỡng bộ lạc.
 
Các nhà thần học, nhân chủng học và xã hội học đã giúp phân loại các tôn giáo đâu ra đó. Họ dành cả đời để phân định giữa những khác biệt nhỏ nhất, thâm cung bí sử nhất. Hình tượng, tín ngưỡng, nghi lễ, thờ cúng, cầu nguyện và cộng đồng đóng vai trò vạch ra ranh giới giữa các tín ngưỡng này.
 
Nhưng vẫn còn thiếu một cái gì đó: những người thuộc một loại triết lý vô thần nào đó. Nhóm này không hề ít. Hoa Kỳ có hơn một tỷ người, tương đương khoảng một phần tư dân số, không theo một tôn giáo nào, khiến cho ‘không tín ngưỡng’ trở thành một loại “tín ngưỡng” lớn thứ hai ở Mỹ. Ở Anh, khoảng 60% dân số không bao giờ đi nhà thờ, còn ở Na Uy hiện nay có nhiều người vô thần hơn là người có tín ngưỡng.
 
Điều đáng chú ý là không phải tất cả triết lý vô thần đều giống nhau.
 
Các loại triết lý vô thần (atheism)
 
Vấn đề của những số liệu thống kê là chúng không nói lên toàn bộ câu chuyện. Thuật ngữ “phi tôn giáo” (non-religious) rộng đến mức gần như chẳng có nghĩa lý gì. Các từ như thế tục (secular), bất khả tri (agnostic), vô thần (atheistic), nhân văn (humanistic), không có niềm tin tôn giáo (irreligious) hoặc phi tôn giáo (non-religious) không phải là những từ đồng nghĩa. Hơn một tỷ người trên thế giới thuộc các thuyết vô thần khác nhau, và sự khác biệt rất quan trọng.
 
Việc phân biệt các thuyết vô thần này không phải là việc dễ dàng, đặc biệt là vì phần lớn trong số họ không muốn được gọi là “tín đồ.” Một số người cho rằng nên mô tả phi tôn giáo như một thang đo (chẳng hạn như thang đo “khả năng có Chúa” từ mức 1-7 mà Richard Dawkins gợi ý trong The God Delusion). Nhưng làm vậy cũng chỉ như ‘con trâu đi trước cái cày.’ Không phải tất cả tôn giáo đều hướng tới khả năng xảy ra, sự chắc chắn hoặc đồng ý thừa nhận đối với các tuyên bố khác nhau (tức là không phải lúc nào cũng chăm chăm xác nhận xem vị thần, thánh nào đó có thật hay không có thật).
 
Nói rộng ra, những người vô thần có thể có ba loại: người không theo tôn giáo (nonreligious), người không tin vào tôn giáo (nonbelievers) và người bất khả tri (agnostic). Danh sách này không phải để phân biệt rạch ròi ai thuộc loại nào, vì các loại triết lý vô thần thường đan xen chồng chéo lên nhau.
 
Người không theo tôn giáo (nonreligious)
 
Loại triết lý vô thần đầu tiên có nghĩa là không theo một trong những tôn giáo truyền thống lớn.
 
Hãy xem xét Trung Quốc. Thoạt nhìn, đây là một đất nước đại đa số là không có niềm tin tôn giáo (irreligious): 91% người dân Trung Quốc có thể được gọi là người vô thần. Nhưng phần lớn dữ liệu này, cũng như trong hầu hết các cuộc khảo sát về nhân khẩu học, đều là để cho người ta tự trả lời câu hỏi. Vấn đề nằm ở chỗ hầu hết mọi người ngày nay sẽ có cách hiểu riêng về tôn giáo. Nhiều người coi đó là chính thức theo những tín ngưỡng hoặc nghi thức của các tôn giáo có tổ chức hẳn hoi. Nó có nghĩa là siêng năng đi nhà thờ, cầu nguyện năm lần một ngày, hoặc tin tưởng vào Tứ Diệu Đế (Four Noble Truths). Nhưng sự thật là tôn giáo vô cùng bao la hơn thế nhiều.
 
Quay lại với trường hợp của Trung Quốc, 91% dân số cho rằng họ là người “vô thần,” nhưng có 70% dân số thờ cúng ông bà tổ tiên. 12% tự nhận mình theo một số tín ngưỡng dân gian, và đại đa số tin vào thứ gần như là tôn giáo – “y học cổ truyền.”
 
Đối với nhiều người, “triết lý vô thần” có nghĩa là không tin vào một tôn giáo chính thức nào. Đối với một số khác, từ này có thể gần giống với từ nguyên của nó hơn, trong đó “a-theism” có nghĩa là anti-theistic belief, niềm tin chống lại thần học, hay không tin có thần thánh nào cả. Nhiều người trong số này là người theo “triết lý thần bí” – nghĩa là họ không nghĩ các hình ảnh hay ý tưởng về Chúa hoặc Phật là đúng, nhưng họ cảm thấy rằng có tồn tại một thực tế tâm linh nào đó.
 
Đó là một sự tò mò phổ biến khắp mọi nơi. Một “người vô thần” cũng có thể tin là có thiên thần, tiên nữ, nghiệp chướng, nhân quả, nghiệp chướng thiêng liêng, linh hồn, ma quỷ, âm hồn hoặc cầu cơ. Những điều này không tạo ra một tín ngưỡng hẳn hoi, nhưng chúng cũng là một dạng tín ngưỡng nào đó.
 
Người không tín ngưỡng, hay người không tin vào tôn giáo (nonbelievers)
 
Loại triết lý vô thần thứ hai là loại triết lý chống lại hoặc bác bỏ những tuyên bố nào đó về tín ngưỡng.
 
Những người vô thần kiểu này sẽ định nghĩa tôn giáo (chưa bàn tới đúng hay sai) là một tập hợp các tín điều, tín ngưỡng và những tuyên bố mà họ cho là không có thật. Đó là loại triết lý vô thần mà hầu hết chúng ta đều thấy quen thuộc và thường xuất hiện nhan nhản trên Internet.
 
Những người vô thần này sẽ nói “Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết,” “Ngồi thiền rồi bay bổng” hoặc “Thiên thần Jibril đã nói chuyện với Muhammed” đều là những điều chẳng thể chứng minh được hoặc không nên tin. Chúng là những sự thật cần chứng thực hoặc bác bỏ. Những người vô thần hiện đại như Richard Dawkins và Sam Harris, và những người cao niên hơn như David Hume hay John Stuart Mill, đều thuộc loại này. Họ chỉ ra những gì họ cho là không đúng, mâu thuẫn hoặc phi lý trong những gì tôn giáo dạy.
 
Người theo triết lý vô thần “không tín ngưỡng” thường sẽ tấn công vào các giá trị của một tôn giáo hoặc thậm chí chính tôn giáo đó. Họ cho rằng tôn giáo là nguyên nhân dẫn đến sự nhẫn tâm, thành kiến, phân biệt chủng tộc, kỳ thị phụ nữ, diệt chủng, bạo lực, tàn ác, mê tín, thiếu hiểu biết… vậy nên phải dẹp bỏ tôn giáo.
 
Người theo thuyết bất khả tri (agnostic)
 
Loại triết lý vô thần thứ ba là vô thưởng vô phạt. Nó được gọi là thuyết bất khả tri.
 
Nếu chúng ta định nghĩa triết lý vô thần là một tuyên bố về niềm tin – cụ thể như là “Tôi chắc chắn 100% rằng Chúa không tồn tại” – thì thật sự sẽ có rất ít người vô thần. Nhiều kiểu người “không tín ngưỡng” khá quan tâm đến khả năng và việc xác minh những chuyện liên quan đến tín điều. Tuy nhiên, có nhiều chuyện thuộc về siêu nhiên không thể loại trừ hoàn toàn.
 
Con người là sinh vật bằng xương bằng thịt, các giác quan có thể sai sót và sự thông tuệ có thể bị ảnh hưởng. Như vậy, rất ít người khẳng định chắc chắn về tính siêu hình và tính vô cực. Rất nhiều người tự nhận mình là người vô thần nhưng thực ra lại là người bất khả tri. Họ có thể nghĩ rằng tôn giáo rất khó có thể đúng (như Dawkins đã nghĩ) hoặc chấp nhận các khả năng khác nhau ở mức độ nào đó. Những người khác ngừng phán xét – dù sao cũng không có gì chứng minh được, vậy hà cớ gì phải một mực khăng khăng?
 
Như William James đã lập luận trong bài tiểu luận “The Will to Believe,” người bất khả tri kiểu này (hay “người hoài nghi”) cũng tương đương với triết lý vô thần. Nếu chúng ta sống qua năm tháng mà không quan tâm đến tôn giáo, không sống một cuộc đời của tín hữu, thì nó giống “như thể chúng ta đã chọn cách không tin.” Sự khác biệt giữa những người bất khả tri và những người vô thần chỉ đơn giản là sự khác biệt về nhận thức luận. Đối với cả hai, đơn giản là tôn giáo không quan trọng.
 
Học cách nói về hoài nghi
 
Một nửa số người trưởng thành ở Hoa Kỳ “hiếm khi hoặc không bao giờ” nói về tôn giáo với người ngoài. Ở Anh, tôn giáo là một chủ đề trò chuyện mang tính riêng tư cá nhân đối với hầu hết mọi người.
 
Nhưng tín ngưỡng của chúng ta, hay tôn giáo, là những điều quan trọng nhất về con người chúng ta. Việc chia sẻ và thảo luận với người khác không chỉ giúp chúng ta hiểu bản thân mình hơn mà còn mang tất cả mọi người lại gần nhau hơn. Xung đột thường nảy sinh từ sự hiểu lầm và thiếu hiểu biết, và rất nhiều sự bất hòa có thể tránh được bằng đối thoại nhằm tìm cách làm sáng tỏ niềm tin của mọi người.
 
Và cũng có một chủ đề thú vị khác: sự hoài nghi. Chúng ta đều có niềm tin, nhưng chúng ta cũng có những hoài nghi. Ngay cả những người theo triết lý hữu thần cũng bác bỏ sự tồn tại của một số vị thần, phải chăng sự hoài nghi cũng chính là một phần của niềm tin.
 

Cung Đô sưu tầm và biên dịch

Nguồn: “Not believing is the second biggest “belief” in the U.S.” được đăng trên trang bigthink.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Ngô Thế Vinh là nhà văn đầu tiên đã sớm gióng lên tiếng chuông cảnh báo về hiểm họa của thủy điện trên thượng nguồn sông Mekong. Anh đã viết hàng trăm bài khảo luận và hàng ngàn trang sách vạch ra những nguy cơ, thiệt hại vật chất, tinh thần và mối đe doạ diệt vong của các nền văn minh dân cư hạ nguồn. Tôi hân hạnh góp bài viết này về anh như một người đồng hành trên sông Mekong gần 30 năm, ôm mối quan tâm cho Đồng Bằng Sông Cửu Long [ĐBSCL] nằm ở cuối nguồn, sẽ phải hứng chịu thiệt hại nặng nề nhất vì thủy điện mà không được hưởng chút lợi ích gì...
Trong bài phát biểu đầu tiên sau khi Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, Tổng thống Joe Biden khẳng định sự hỗ trợ của Hoa Kỳ dành cho Israel là “vững chắc và không lung lay, giống như những gì chúng tôi đã và đang làm kể từ thời điểm Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên công nhận Israel, chỉ 11 phút sau khi quốc gia này thành lập, cách đây 75 năm.” Israel đã tuyên bố quyết tâm tiêu diệt Hamas và phát động một cuộc chiến đẫm máu ở Gaza. Tính đến cuối tháng 11, đã có hơn 14,000 người Palestine thiệt mạng. Chiến tranh cũng đã phá hủy phần lớn Gaza và khiến khoảng 70% dân số ở đây phải sơ tán.
Là người gốc Việt có khả năng làm truyền thanh dòng chính nên khi Việt Nam mở cửa chào đón du khách phương Tây, anh đã về làm phóng sự về sinh hoạt đời sống, về những thay đổi đang diễn ra trên quê hương nguồn cội sau ngày có chính sách “Đổi mới”. Loạt phóng sự đem đến cho anh giải thưởng xuất sắc của Overseas Press Club. Anh cũng còn là một nhà bình luận trong chương trình “All Things Considered” trên hệ thống truyền thanh National Public Radio.
Sách giáo khoa Hoa Kỳ thuật lại câu chuyện về những nhà phiêu lưu thám hiểm châu Âu thành lập các thuộc địa ở “Tân Thế giới” và những câu chuyện về “Lễ tạ ơn đầu tiên” thường miêu tả những người thực dân và những người Mỹ bản địa đang cùng nhau ăn uống chan hòa hạnh phúc. Sách vở ghi chép cuộc chiến giành độc lập của các thuộc địa là một chiến thắng chính đáng. Việc loại bỏ người Mỹ bản địa có thể được nhắc đến như một chú thích đáng buồn, nhưng chiến thắng của tinh thần tiên phong chiếm vị trí trung tâm khiến những chi tiết khác lu mờ.
Kinh điển Phật giáo buổi sơ thời đề cập đến một số vấn đề quốc tế, kinh tế và chính trị. Khi mục đích chính trong giáo lý của Đức Phật là giải thoát cá nhân ra khỏi các đau khổ đang lan tràn, giáo lý của Ngài cũng thừa nhận sự tương thuộc của cá nhân với xã hội, thể chế chính trị và kinh tế. Giáo lý của Đức Phật đã tìm cách dung hoà những mối quan hệ này một cách xây dựng...
Cho nên vào năm 1955, khi “Một Quốc Gia Vừa Ra Đời” như báo chí Mỹ tuyên dương thì quốc gia ấy đã phải đối diện với bao nhiêu khó khăn khôn lường. Ngân sách của Pháp để lại thì thật eo hẹp, kỹ sư, chuyên viên trong mọi lãnh vực đều hết sức hiếm hoi vì Pháp đã rút đi hầu hết, để lại một lỗ hổng lớn cho cả nển kinh tế lẫn hành chánh, giáo dục, y tế...
Viễn cảnh một ĐBSCL khô hạn và sa mạc hoá, không lẽ đây là “gia tài của mẹ”, một di sản thế hệ này để lại cho các thế hệ con cháu trong tương lai. Đây là cái giá rất đắt mà Việt Nam phải trả cho chuỗi những con đập thuỷ điện thượng nguồn và các dự án chuyển dòng lấy nước từ con sông Mekong, trong đó có con Kênh Phù Nam Techo... Một vấn đề nhức nhối và hết sức trọng đại hiện nay được nhà văn Ngô Thế Vinh, với cái tâm tha thiết luôn hướng về sinh mệnh đất nước và dân tộc Việt Nam, phân tích và nhận định trong bài viết công phu sau. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
✱ NARA: Thượng viện mở cuộc điều tra về Hoạt động Tình báo của Chính phủ nhằm điều tra âm mưu ám sát các nhà lãnh đạo nước ngoài của CIA, và sau 40 năm vào ngày 7.7.2015 bản văn được công khai ✱ NARA: HĐQMCM hội họp tìm cách giải quyết số phận của 2 anh em ông Diệm-Nhu. Quyết định chung cuộc là giết 2 ông Diệm-Nhu. Hội đồng chọn Đại Úy Nhung làm người thi hành lệnh xử tử. ✱ BNG/Đại sứ Lodge: Tướng Khánh nói với tôi chiếc cặp (của ông Diệm) đựng một triệu đô la Mỹ “mệnh giá lớn nhất”. Tướng Minh đã giữ chiếc cặp và chưa bao giờ giao nộp nó. Tướng Minh vào thời gian này đã lấy được 40 ký vàng miếng...
Israel đang tập trung quân đội tại khu vực biên giới giáp với Dải Gaza dự kiến cho một cuộc tấn công trên bộ. Đồng thời, họ cũng đang gấp rút sơ tán các ngôi làng ở gần biên giới với Lebanon vì lo ngại mặt trận thứ hai mở ra ở phía bắc. Hizbullah, một nhóm chiến binh Shia được Iran hậu thuẫn có trụ sở tại Lebanon, từng đụng độ với Israel. Cả hai bên, một nhà báo và ít nhất hai thường dân Lebanon đã thiệt mạng. Iran cảnh báo lực lượng ủy nhiệm sắp tung ra “đòn phủ đầu” chống lại Israel. Trước đây, Hizbullah đã từng tham chiến để ủng hộ Hamas, nhóm chiến binh kiểm soát Gaza. Sự tham gia của họ vào cuộc xung đột hiện tại sẽ đẩy căng thẳng leo thang đáng kể. Vậy Hizbullah là gì và đáng gờm đến mức nào?
"Dự án Kênh Phù Nam tại Cam Bốt do Trung Quốc đỡ đầu, tuy nói là tuyến thủy vận thôi nhưng vẫn có thể là kênh dẫn thủy nhập điền. Trung Quốc có chiến lược khai thác mối hận thù giữa dân tộc Cam Bốt và Việt Nam để chia rẽ họ, đồng thời tài trợ hàng chục tỉ Mỹ kim mua chuộc Lào và Cam Bốt, ràng buộc họ thành con nợ, để cô lập Việt Nam. Bài tham luận này trình bày một chiến lược hoàn toàn mới cho Việt Nam và liên minh chiến lược cho Việt Nam và Cam Bốt để đối phó với Trung Quốc và Lào." Đó là lời Dẫn nhập bài biên khảo về dự án đào kênh Phù Nam của Cam Bốt, bài của kỹ sư Phạm Phan Long, một chuyên gia về Đồng bằng sông Cửu Long. Sau bài viết của nhà văn Ngô Thế Vinh, đây là tiếng chuông cảnh báo thứ hai về vấn đề này. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.