Sách giáo khoa Hoa Kỳ thuật lại câu chuyện về những nhà phiêu lưu thám hiểm châu Âu thành lập các thuộc địa ở “Tân Thế giới” và những câu chuyện về “Lễ tạ ơn đầu tiên” thường miêu tả những người thực dân và những người Mỹ bản địa đang cùng nhau ăn uống chan hòa hạnh phúc. Sách vở ghi chép cuộc chiến giành độc lập của các thuộc địa là một chiến thắng chính đáng. Việc loại bỏ người Mỹ bản địa có thể được nhắc đến như một chú thích đáng buồn, nhưng chiến thắng của tinh thần tiên phong chiếm vị trí trung tâm khiến những chi tiết khác lu mờ.
Là một học giả chuyên nghiên cứu về người Mỹ bản địa, Lisa Michelle King, giáo sư Anh Ngữ tại Đại Học Tennessee cho rằng câu chuyện hời hợt này che giấu sự thật về điều mà nhiều nhà sử học và nhà hoạt động gọi là “chủ nghĩa thực dân của người định cư”. Nhà sử học Lorenzo Veracini khẳng định rằng hoạt động thuộc địa không chỉ là việc một quốc gia cử các nhà thám hiểm đi đến xứ sở mở khai thác và mang về tài nguyên, hay điều mà các học giả gọi là “chủ nghĩa thực dân cổ điển”, mà còn là những gì sẽ xảy ra khi một dân tộc mới chuyển đến và cố gắng tự khẳng định mình là cộng đồng “ưu việt” có văn hóa, ngôn ngữ và các quyền đối với tài nguyên và đất đai thay thế những quyền của người Bản địa đã sống ở đó.
Khi lịch sử, văn hóa và chính trị Hoa Kỳ được hiểu qua lăng kính của chủ nghĩa thực dân định cư, sẽ dễ hiểu hơn, như nhà sử học Patrick Wolfe đã viết, “những người thực dân định cư đến ở lại một vùng đất mới: cuộc xâm chiếm của họ trở thành một hệ thống, một cấu trúc, không phải một sự kiện”.
Các chính Sách của Hoa Kỳ và tại sao các chính sách này quan trọng
Mặc dù các chính sách thuộc địa của người định cư có thể bao gồm tội diệt chủng nhưng chúng có nhiều hình thức.
Các hiệp ước dối trá và các điều khoản không được giữ đúng đã buộc các quốc gia bộ tộc người Mỹ bản địa phải từ bỏ phần lớn quê hương của họ. Ví dụ, ở phía đông Tennessee, Hiệp ước Holston, được ký năm 1791, về mặt lý thuyết được đưa ra nhằm giúp thiết lập ranh giới rõ ràng giữa Cherokee và cộng đồng người định cư. Chính phủ Hoa Kỳ sẽ nhận được đất và đổi lại người Cherokee sẽ nhận được các khoản thanh toán hàng năm, hàng hóa và lời hứa bảo vệ của chính phủ. Thay vào đó, những người định cư chuyển đến chiếm đất của người Cherokee và chính phủ Mỹ không can thiệp. Đến năm 1798, Hiệp ước Tellico đầu tiên buộc người Cherokee phải từ bỏ đất đai mà những người định cư đã chiếm giữ trái phép, cùng với một số đất đai khác. Năm này qua năm khác, người Cherokee và các bộ lạc khác bị đẩy ra ngoài lãnh thổ của họ.
Đạo Luật Buộc Dời Bỏ Hoàn Toàn ngoài các hiệp ước càng khiến các quốc gia người Mỹ bản địa bị tước đoạt đất đai của họ và bị xóa sổ. Thay vì ủng hộ bất kỳ hình thức chung sống nào, đạo luật như Đạo Luật Loại Bỏ Người Da Đỏ năm 1830 kêu gọi loại bỏ hoàn toàn tất cả các bộ lạc ở phía đông sông Mississippi.
Sự thật thì lịch sử không bắt đầu chỉ khi người châu Âu đặt chân đến Bắc Mỹ. Và sự xuất hiện của Mayflower cũng không phải là lần đầu tiên người bản xứ tiếp xúc với người tây phương. Người Wampanoags đã có những quan hệ đẫm máu và liên quan đến việc người châu Âu đánh phá bắt nô lệ từ bao năm trước đó.
Mặc dù người Cherokee và những bộ tộc khác ra tòa đấu tranh chống các luật như vậy, nhưng kết quả sau cùng là 100.000 người bản địa ở miền đông Hoa Kỳ phải di dời trong khoảng thời gian từ 1830 đến 1850 dẫn đến cái chết của hàng ngàn người Cherokee, Choctaw, Chickasaw, Muscogee và Seminole trên Đường Mòn Nước Mắt.
Các hệ thống nhận dạng lượng tử máu đã cố gắng làm cho người Mỹ bản địa “biến mất” bằng cách xác định danh tính người Mỹ bản địa thông qua việc đếm một phần nhỏ “máu Bản Xứ” và khuyến khích kết hôn với những người không phải người bản địa. Khi đã đạt đến một mức độ hôn nhân khác giới nhất định, một người không còn được coi là người bản địa nữa và không đủ điều kiện để đăng ký vào bộ lạc.
Cùng với những chính sách này, giáo dục còn được sử dụng như một công cụ để xóa bỏ ngôn ngữ và văn hóa của người Mỹ bản địa bằng cách ép bức tách rời trẻ em bản địa khỏi gia đình của chúng và cấm chúng nói ngôn ngữ hoặc thực hành văn hóa của họ. Là người sáng lập trường nội trú đầu tiên, Trường Carlisle Indian Industrial School, Richard Henry Pratt nổi tiếng với lập luận “Giết người da đỏ, là cứu người”. Việc lạm dụng học sinh không phải là hiếm. Nhiều người sống sót ở trường nội trú đã trải qua nỗi đau mất mọi nối kết với gia đình và nền văn hóa của họ, một nỗi đau vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Các chính sách di dời và giải tán của Hoa Kỳ trong thế kỷ 20 còn cố gắng miễn trừ trách nhiệm theo hiệp ước của chính phủ liên bang đối với các quốc gia bản địa. Nếu chính phủ Hoa Kỳ có thể “chấm dứt” các quốc gia bộ lạc bằng cách giải tán họ và các quốc gia bộ tộc, thì mọi nghĩa vụ đối với các bộ lạc sẽ biến mất về mặt pháp lý và tất cả đất đai của bộ lạc còn lại sẽ trở lại quyền sở hữu của chính phủ.
Sau khi Nghị quyết 108 của Hạ viện được thông qua vào năm 1953, hơn 100 bộ lạc và 13.000 người bản địa đã bị chấm dứt các hợp đồng và hơn 1 triệu mẫu đất bị chiếm mất. Các chính sách khác của liên bang như Đạo luật Tái định cư Người Da đỏ năm 1956 đã khuyến khích các thành viên bộ lạc vĩnh viễn rời khỏi các khu đất bảo tồn và chuyển đến các thành phố để tìm việc làm và do đó hòa nhập vào xã hội Hoa Kỳ.
Nhìn chung, các chính sách này chưa được thực hiện đầy đủ và nhiều quốc gia bộ lạc kêu gọi việc tái khôi phục địa vị của họ. Tuy nhiên, thiệt hại thực sự đã gây ra cho các quốc gia bộ lạc phải chịu sự giải tán và các thành viên bộ lạc tái định cư phải đối mặt với sự phân biệt đối xử và mất kết nối với nhau.
Giảm thiểu tác hại
Dĩ nhiên rằng không thể đơn giản hủy bỏ tất cả các chính sách này và tác động của chúng. Tuy nhiên, các học giả như Eve Tuck và K. Wayne Yang cho rằng việc thách thức những chính sách đó và nỗ lực giảm bớt ảnh hưởng của chúng, được gọi là giảm thiểu tác hại của người đến đây định cư, là bước đầu tiên hướng tới sự thay đổi. Nhưng để thay đổi xảy ra, những người được hưởng lợi từ hệ thống thuộc địa của người định cư - dù là người định cư ban đầu hay bất kỳ ai ngày nay được hưởng lợi từ các chính sách này - cần phải hợp tác với các quốc gia và cộng đồng người Mỹ bản địa để tìm ra những cách tích cực để cải thiện.
Điểm khởi đầu là xác định những câu chuyện hiện vẫn còn lưu hành ở Hoa Kỳ về người Mỹ bản địa và tìm cách thay đổi những giả định thuộc địa của người định cư vẫn cố ý xóa sổ gốc gác người Mỹ bản địa. Với Lễ Tạ ơn cận kề, việc truyền dạy câu chuyện Lễ Tạ Ơn cùng với những gốc tích về các bộ tộc Wampanoag ngày nay là điều chúng ta có thể bắt đầu.
Quá khứ không thể xóa bỏ nhưng nó không nhất thiết phải quyết định tương lai.
Việt Báo biên dịch
Nguồn: Bài gốc của Lisa Michelle King trên The Conversation (https://theconversation.com/thanksgiving-stories-gloss-over-the-history-of-us-settlement-on-native-lands-213517)
Gửi ý kiến của bạn