Hôm nay,  

Người Việt Di Dân Sau 48 Năm (1975-2023)

22/09/202300:00:00(Xem: 3241)

Di dan
 
Phần I
Các bước thành hình của diaspora người Việt ở Hoa Kỳ kể từ năm 1975 đến nay
 
Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức nhân viên Hoa Kỳ và hàng nghìn quan chức quân sự và ngoại giao của miền Nam Việt Nam. Các kênh truyền hình tin tức Mỹ đã phát đi những hình ảnh đau lòng về cuộc không vận hỗn loạn, trong đó có đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng tràn ngập ngoài cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Làn sóng đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Gerald Ford. Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân đội Mỹ đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa (1).
 
Đợt thứ hai là các thuyền nhân (boatpeople), cao điểm vào năm 1978-1979 (năm diễn ra chiến tranh biên giới với Cambodia và Trung Cộng) tiếp diễn cho đến giữa thập niên 1980. Cuối cùng, Indonesia đóng cửa trại tị nạn ở Galang năm 1996; Thái Lan năm 1997; Philippines năm 1997, Hồng Kông năm 2000. Năm 2001, Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn chính thức dẹp bỏ trại tị nạn cuối cùng đặt tại Malaysia, chấm dứt 21 năm Cao ủy Tỵ nạn hợp tác ở nước này để giúp người vượt biển đến từ Việt Nam (2).
 
Đợt thứ 3 vào các thập niên 1980-1990. Để đối phó với những khó khăn mà thuyền nhân phải chịu đựng và hội nghị Geneva ngày 14 tháng 6 năm 1980 về Người tị nạn Đông Dương, chính phủ Hoa Kỳ đã cho phép người Việt Nam nhập cư vào Hoa Kỳ thông qua chương trình ra đi có trật tự ODP (Orderly Departure Program) của UNHCR (Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc). Các diện sau đây được định cư ở Mỹ theo các chương trình này: đoàn tụ gia đình, cựu nhân viên Hoa Kỳ, và cựu tù nhân cải tạo. Các cựu tù cải tạo nhập cư vào Hoa Kỳ thông qua chương trình con (subprogram) của ODP gọi là Chiến dịch Nhân đạo (HO).
   
Chương trình ra đi có trật tự đã giúp hơn 500.000 người tị nạn Việt Nam nhập cư vào Hoa Kỳ trước khi chương trình này kết thúc vào năm 1994.
   
Vào tháng 11 năm 2005, Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký một thỏa thuận mở lại ODP và gia hạn Tu chính án McCain (cho phép con cái của các cựu tù nhân cải tạo được nhập cư với cha mẹ của họ). Việc gia hạn ODP kết thúc vào tháng 2 năm 2009, với Tu chính án McCain hết hạn vào tháng 9 năm 2009.
   
Năm 1987, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Hồi hương Con Lai Mỹ-Á (Amerasian Homecoming Act), cho phép trẻ em Việt Nam có cha là người Mỹ nhập cư vào Hoa Kỳ, cho phép ước tính khoảng 23-25.000 con lai và 60-70.000 người thân của họ nhập cư vào Hoa Kỳ.
   
Theo thống kê của Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM), mỗi năm, Việt Nam có trung bình hơn 100.000 người di cư, đa số là những người có học vấn hay lợi tức cao ở trong nước và Việt Nam đang nằm trong top 10 quốc gia có số du học sinh nhiều nhất thế giới (theo SBS, Australia).
   
Theo Cơ quan Lao động Quốc tế (ILO): “Tổng cộng có khoảng 80.000 người Việt Nam rời đất nước đi làm việc ở nước ngoài mỗi năm. Khoảng 400.000 lao động Việt Nam hiện đã có mặt tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Dòng tiền hằng năm của người di cư lao động đạt khoảng 2 tỷ USD trong những năm gần đây, cho thấy ý nghĩa kinh tế của di cư lao động. Thật không may, cũng có những vấn đề đáng kể liên quan đến việc di cư lao động: người sử dụng lao động vi phạm quyền của người lao động, người lao động vi phạm hợp đồng và đào ngũ, mạng lưới tuyển dụng bất hợp pháp, và đáng kể nhất là vi phạm các quy định của chính phủ về thủ tục tuyển dụng (3).
   
Nhân đây chúng ta nhắc lại một số dấu mốc lịch sử về người Việt đi ra sống ở ngoại quốc.
   
Đợt đầu tiên đông người Việt rời khỏi quê hương là khoảng năm 1914-1918 của Thế Chiến thứ nhất lúc 50 ngàn thợ thuyền và 50 ngàn lính Đông Dương (Việt-Miên-Lào) được gởi qua tăng cường cho lực lượng lao động và quân sự Pháp. Tuy nhiên đa số những người này hồi hương sau chiến tranh. Trong thập niên 1920 chỉ còn chừng 8000 người Việt ở lại Pháp, đa số là quân nhân.
   
Đợt di dân thứ 2 (tạm thời và cưỡng bách) của người “lính thợ” Việt đến Pháp xảy ra vào cuối năm 1939 trước cuộc chiến tranh ngắn ngủi giữa Pháp và Đức, khi thế chiến thứ 2 bắt đầu. Tình trạng lộn xộn của thời kỳ sau khi Pháp đầu hàng Đức (Chính phủ Vichy của Thống chế Pétain) và các biến cố lúc nước Pháp được Đồng Minh giải phóng năm 1945 làm trì hoãn việc hồi hương của các lính thợ và việc hồi hương của họ chỉ kết thúc năm 1952.
   
Hiện nay có chừng 4,5 triệu người sinh tại Việt Nam hay gốc người Việt Nam sinh sống tại hải ngoại (các báo ở VN cho con số cao hơn, chừng 5,3 triệu người Việt định cư tại nước ngoài, ví dụ báo Nhân Dân năm 2020, do Wikipedia trích dẫn). Chừng một nửa số này sống ở Mỹ (Người Mỹ gốc Việt), và điều đáng ngạc nhiên là Cambodia là nước thứ nhì về số lượng di dân người gốc Việt. Con số này ước tính chừng 500 ngàn cho đến một triệu người theo Wikipedia, nhưng theo website minorityrights.org, thì mặc dù con số chính thức của chính phủ Cambodia là dưới 15,000 người (0,1% dân số), trên thực tế số người Việt chừng 400.000-700.000 với 90% là “vô quốc gia” (stateless) và không có thẻ căn cước hay giấy khai sinh. Sau khi Khmer Đỏ chiếm Cambodia năm 1975, đa số người Việt chạy ra khỏi xứ, chỉ còn chừng 20.000 ở lại và đa số bị giết chết. Sau đó thì người Việt lại từ Việt Nam trở lại Cambodia.
   
Về Hàn quốc, là điểm đến số một của các cô dâu Việt Nam, “Theo số liệu 2020, trong số 2,036,075 người nước ngoài cư trú tại Hàn, người Trung Quốc chiếm 44%, tương đương 894,906 người. Ở vị trí thứ 2 là người Việt Nam với 211,243 người, chiếm gần 10,4%.”Tuy nhiên nếu chúng ta đếm luôn các con cái con của trên 40 ngàn cô dâu Việt với chồng người Hàn chắc con số diaspora Việt sẽ cao hơn số này.
 
Bối cảnh chính trị xã hội
 
Người Việt nhập cư Hoa Kỳ trước 1975 không đáng kể. Vào những năm 1950, dân số người Việt nhập cư sống ở Hoa Kỳ chỉ ở mức thấp hàng trăm người. Những người nhập cư này thường là sinh viên, cô dâu có chồng Mỹ trong chiến tranh hoặc những người có nghề nghiệp trình độ cao chẳng hạn như bác sĩ. Dân số này không tăng cho đến gần cuối Chiến tranh Việt Nam, thập niên 1970 số người Việt tăng đột biến. Chiến tranh Mỹ tham gia ở Việt Nam cũng là thời kỳ hoang mang và chia rẽ đối với người dân Hoa Kỳ.
   
Là một trong những cuộc chiến dài nhất và bị ghét nhất của Hoa Kỳ, cho nên những người Việt nhập cư sau cuộc chiến này lại càng gặp khó khăn. Với tình cảm phản chiến vẫn còn mạnh mẽ và nước Mỹ vẫn còn quay cuồng đối phó với những thương vong của một cuộc chiến gây tranh cãi như vậy, những người nhập cư Việt Nam thấy mình phải đối đầu với “sự phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử và loại trừ”, nói theo ngôn ngữ hiện nay của những người phe tả “racism, discrimination, exclusion”.
   

Hồi đó. chúng ta từ trại tỵ nạn mới đến Mỹ, đối với không ít người cảm giác tựa như được lên thiên đàng rồi, và cảm tình chính là lòng biết ơn với đất nước này đã cưu mang chúng ta, cho chúng ta một cuộc sống tự do, sung túc. Nên chúng ta không nhận thức những phân biệt đối xử, nếu có chúng ta cũng thông cảm, dễ bỏ qua, hoặc chịu không nổi thì tìm đi ở chỗ khác. Tuy nhiên, thời đó có phim Alamo Bay (1984), do Louis Malle đạo diễn, nói về cuộc xung đột 4 năm trước giữa người Việt tỵ nạn đánh cá trong vịnh Galveston ở Texas và các ngư phủ da trắng bị mất quyền lợi làm ăn của họ, được nhóm KKK hỗ trợ và huấn luyện quân sự. Nhưng cuối cùng “Về lâu dài, người Việt Nam không chỉ tiếp tục bám biển mà còn phát triển mạnh mẽ. ‘Chúng tôi thích thời tiết ở đây, chúng tôi thích đánh bắt tôm, chúng tôi thích cơ hội bắt đầu công việc kinh doanh của riêng mình,” một người nói với The Washington Post vào năm 1984. Tờ báo gọi đó là “câu chuyện cổ điển về người nhập cư của Mỹ. Họ đến, họ làm việc vất vả, họ hy sinh, họ vượt qua sự thù địch và bạo lực, họ đã chiến thắng.”
   
Nhưng đây chính xác là nỗi sợ hãi mà [người thuộc KKK ông] Beam đã “vũ khí hóa”: Người da trắng đã thua cuộc. Đến năm 1984, một ngư dân kể rằng trong số 150 chiếc thuyền cập cảng, có thể 25 chiếc thuộc sở hữu của người Mỹ. “Hãy đối mặt với nó,” ông nói, “họ đã xóa sổ chúng ta.” (4)
   
Sau Chiến tranh Việt Nam, có hai làn sóng người nhập cư khác nhau đến Hoa Kỳ. Làn sóng đầu tiên diễn ra sau khi Sài Gòn thất thủ vào tháng 4 năm 1975; 125.000 người tị nạn Việt Nam chạy sang Hoa Kỳ. Những người nhập cư này là những người làm việc chặt chẽ với quân đội Hoa Kỳ hoặc có các vị trí nổi bật trong chính phủ miền Nam Việt Nam và sợ bị chính quyền cộng sản miền Bắc Việt Nam hành quyết. Làn sóng di cư đầu tiên này phải đối mặt với một cuộc di tản hỗn loạn ra khỏi đất nước và họ thường bị tách khỏi các thành viên trong gia đình. Khi đến Hoa Kỳ, những người nhập cư này được đưa đến làm thủ tục tại các trại tạm cư rải rác trên nước Mỹ, ở California, Pennsylvania, Arkansas và Florida. Sau đó, họ được chuyển đến ở gần những người bảo trợ, nhận “đỡ đầu” họ đáp ứng các nhu cầu căn bản. Quá trình di tản khỏi đất nước mình và được tập trung ở các trại tạm thời trong nước Mỹ trong khi chờ đợi một người bảo lãnh là một trải nghiệm độc đáo cho tới thời điểm đó chỉ xảy ra với những người nhập cư Đông Nam Á. Năm 2022, sau khi Mỹ đột ngột rút ra khỏi Kabul, Afghanistan, 76000 người tỵ nạn nước này cũng tạm thời ở trong các căn cứ quân sự Mỹ trong nhiều tháng, có người phải ở trong các khách sạn một thời gian trước khi được bảo lãnh định cư.
   
Làn sóng người nhập cư thứ hai diễn ra vài năm sau đó từ cuối những năm 1970 cho đến giữa những năm 1980. Những người nhập cư này rời Việt Nam sau khi chế độ cộng sản tìm cách thay đổi mọi mặt cuộc sống ở nước Việt Nam mới được thống nhất. Những người nhập cư này được cho là mối đe dọa đối với chính phủ cộng sản đã phải đối mặt với các trại cải tạo, thực tế là những trại lao động khổ sai. Cùng với làn sóng di cư thứ hai là những người vì lý do tín ngưỡng hay thuộc thành phần kinh tế được coi như có tội với chế độ (ví dụ tư sản mại bản).
   
Vô số người tị nạn chạy trốn khỏi Việt Nam trên những chiếc thuyền nhỏ, nguy hiểm đến các nước lân cận như Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines hoặc Hồng Kông để chờ được chấp nhận trong các trại tị nạn để đi đến Hoa Kỳ, Úc, Pháp hoặc Canada. Tuy nhiên, do các con thuyền này không an toàn, và do nạn hải tặc cướp bóc trên biển, khoảng 200.000 đến 400.000 người Việt Nam đã bỏ mạng trên đường vượt biển. Đối với một số người Mỹ, đi tìm một đời sống tốt hơn không phải là lý do chấp nhận được để nhập cư vào Mỹ, do đó họ có một cái nhìn tiêu cực và võ đoán về thuyền nhân đến Hoa Kỳ. Tuy nhiên, việc thuyền nhân sẵn sàng rời bỏ quê hương và liều mạng để cố gắng đến được các nước tự do cho thấy sự tuyệt vọng mà người Việt Nam phải trải qua trong những năm sau khi Sài Gòn sụp đổ và làm cho người ta có cảm tình với thuyền nhân hơn, kể cả những người nổi tiếng phe tả trước đây chống chính phủ VNCH như triết gia Jean Paul Sartre.
   
Một vấn đề lớn đối với làn sóng người tị nạn Việt Nam đặc biệt làn sóng thứ hai (thuyền nhân) là “Rối loạn căng thẳng sau chấn thương” (PTSD) do những nỗi kinh hoàng mà họ phải đối mặt khi rời đất nước để đến Hoa Kỳ. Những người bị PTSD thường không tìm kiếm sự giúp đỡ vì sự kỳ thị tiêu cực liên quan đến bệnh tâm thần trong những năm 1970 và 1980. Họ thường trải qua những cơn ác mộng, trầm cảm và họ thể hiện những hành vi có vẻ như chống đối xã hội. Các triệu chứng mà họ gặp phải tương tự như các triệu chứng của người lính Mỹ mắc PTSD từng tham chiến ở Việt Nam. Căn bệnh tâm thần này khiến một số người tị nạn càng khó hòa nhập với văn hóa Mỹ, kiếm việc làm hoặc hòa nhập với cộng đồng mới của họ ở Hoa Kỳ. Theo một nghiên cứu năm 2006 của Viện Tiểu đường, Tiêu hóa và Bệnh thận Quốc gia, khoảng 70% người tị nạn Đông Nam Á được chăm sóc sức khỏe tâm thần được chẩn đoán mắc chứng rối loạn căng thẳng sau chấn thương (5).
   
Một khó khăn lớn trong việc thích ứng với môi trường mới là sự tản mát ban đầu của những người nhập cư Việt Nam. Những người nhập cư được bảo trợ đã di chuyển khắp nước Mỹ, gây khó khăn cho chúng ta là những người từ một nền văn hóa phụ thuộc quá nhiều vào gia đình và cộng đồng. Trường hợp điển hình là nhân vật truyền thông nổi tiếng Leyna Nguyễn, năm 1975 cô 5 tuổi, cùng theo gia đình di tản qua Hoa Kỳ và định cư tại tiểu bang Minnesota, nơi rất vắng vẻ và không có người Việt. Một hôm gia đình cô tìm được sau vườn một rau gì đó giống rau ở Việt Nam, đem về nấu ăn, ngon quá nên ngủ say. Đến lúc sponsor về thấy tưởng là cả nhà bị ngộ độc thực phẩm. Tuy nhiên đây cũng là yếu tố giúp cho cô nói đúng giọng Mỹ và thành công trong môi trường rất cạnh tranh của kỹ nghệ truyền thông truyền hình dòng chính của Mỹ.
   
Như chúng ta đã bàn ở trên, nói chung dân Mỹ rất bất mãn về Chiến tranh Việt Nam. Những người nhập cư Việt Nam thường phải đối mặt với sự phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử từ công dân Mỹ, đặc biệt là trong những năm sau Chiến tranh Việt Nam. Tình cảm bài châu Á này bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 (với người Tàu) và tiếp tục kéo dài đến những năm 1970 và 1980.
   
Theo một cuộc thăm dò năm 1975 của Gallup, hơn một nửa công chúng Hoa Kỳ không đồng ý với việc tái định cư của người Việt sang Hoa Kỳ. Thái độ này đối với việc người Việt Nam nhập cư ào ạt là do dân Mỹ đã chán ngấy cuộc chiến ở Việt Nam, trong khi có những dữ kiện thống kê cho thấy xu hướng ở Mỹ coi người Việt Nam là “kẻ thù”, mặc dù hầu hết người tị nạn Việt Nam đã từng đứng về phía Mỹ trong chiến tranh, có lẽ họ hiểu sai đây là cuộc chiến giữa Mỹ và Việt Nam, thay vì thực chất là một cuộc nội chiến giữa người Việt miền Nam đồng minh với Mỹ và người Việt miền Bắc được thế giới cộng sản hỗ trợ.
   
Không có giải thích chính xác lý do đằng sau dữ liệu từ cuộc thăm dò, nhưng nó khiến việc tái định cư cho những người nhập cư Việt Nam sau chiến tranh trở nên vô cùng khó khăn.
 
(Còn tiếp)
 
– Bác sĩ Hồ Văn Hiền
 
Tham khảo:
 
 
(2) Theo Wikipedia
 
 
 
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng, kể cả của những tác giả lừng danh như Mark Twain, Harriet Beecher Stowe, và William Shakespeare, đều đã từng bị cấm trong các trường học ở Hoa Kỳ vì bị các nhà hữu trách cho là có nội dung gây tranh cãi, tục tĩu, khiêu dâm hoặc không phù hợp. Một trong những cái tên đáng chú ý là Judy Blume, nữ tác giả của cuốn sách “Are You There God? It's Me, Margaret” (Chúa ơi Người có đó không? Là con, Margaret) năm 1970, từng bị phản đối và bị cấm ở nhiều trường học trên toàn Hoa Kỳ vì nói về tuổi dậy thì của phái nữ và các vấn đề tôn giáo.
Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra. Cả hai đều do con người tạo ra và đều là thảm họa cho nhân loại! Nhưng thảm họa này không phải là điều không thể giải quyết được, bởi lẽ những gì do con người gây ra cũng đều có thể do con người ngăn chận và hóa giải được. Cụ thể là hàng chục năm qua, Liên Hiệp Quốc đã nỗ lực kêu gọi, bằng các nghị quyết, các quốc gia cố gắng thực hiện các biện pháp giảm khí thải nhà kính, với các chính sách cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, gia tăng sản lượng xe chạy bằng điện năng, v.v… Dù kết quả chưa đạt được mức yêu cầu, nhưng cũng đã gây được ý thức và thể hiện quyết tâm của cộng đồng thế giới trong việc giải quyết thảm họa của khí thải nhà kính.
Hãng giày Nike từng dự định ra mắt mẫu giày thể thao đặc biệt với tên gọi Air Max 1 Quick Strike Fourth of July nhân dịp kỷ niệm Ngày Độc Lập. Trên mẫu giày này có in biểu tượng quốc kỳ ban đầu của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ với 13 ngôi sao xếp thành vòng tròn – còn gọi là cờ Betsy Ross. Tuy nhiên, bất ngờ thay, trước khi sản phẩm được bày bán, Nike đã rút mẫu giày này khỏi thị trường sau khi nhận được lời khuyên từ đại sứ thương hiệu và cầu thủ NFL Colin Kaepernick, cho rằng biểu tượng này mang tính xúc phạm vì có liên quan đến thời kỳ đen tối của Hoa Kỳ. Sự việc này đã làm dấy lên cuộc tranh cãi nảy lửa với nhiều ý kiến trái chiều.
Chuyện lẽ ra chẳng có gì. Cho đến khi bị chính trị xâm đoạt. Vào một ngày mùa hè, Erika Lee, 35 tuổi và là một cư dân của thành phố Springfield, tức Cánh Đồng Xuân, thuộc tiểu bang Ohio, đưa lên trên trang Facebook của cô một tin đồn bâng quơ cô mới nghe được. Điều cô nghe được là con mèo của một người hàng xóm đã biến mất, và rằng có thể một trong những người nhập cư Haiti hàng xóm của cô đã bắt con mèo đó. Cô đưa tin đồn đó lên trang Facebook của mình.
Tự cổ chí kim, những hiểu biết và phát triển mới trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật thường khiến chúng ta vừa thấy thú vị và ấn tượng, vừa thấy lo lắng, sợ hãi. Mới đây, OpenAI đã dự đoán rằng trong vòng 10 năm tới sẽ xuất hiện “siêu trí tuệ nhân tạo” (Artificial superintelligence). Để chuẩn bị, hãng này đang tập trung xây dựng một đội ngũ chuyên gia mới, và dành 20% tài nguyên điện toán của mình để đảm bảo rằng các hệ thống AI sẽ hoạt động phù hợp và tôn trọng các tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức của con người.
Tháng 9 là tháng có nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Sau đây là một số ngày đáng chú ý. 16 tháng 9. - 1994 - Ngày Ozone thế giới, nâng cao nhận thức về tầng ozone3. - 1970 - Jimi Hendrix qua đời vì dùng thuốc quá liều. - 1620 - Mayflower khởi hành đến Tân Thế giới. Con tàu Anh được gọi là Mayflower khởi hành từ Plymouth trong chuyến hành trình đến Châu Mỹ. Trên tàu có 102 hành khách đang tìm kiếm cuộc sống mới ở Tân Thế giới. Con tàu mất 10 tuần để băng qua Đại Tây Dương trước khi thả neo gần Cape Cod, Massachusetts.
Hiếm ai có thể hình dung cơn bão tin giả (fake news) hoành hành khắp nước Mỹ trong tám năm qua, từ cuộc bầu cử 2016, lại thổi đến từ Veles – một thị trấn xa xôi nằm phía tây nam châu Âu, ở North Macedonia, trên dòng sông Vardar êm ả. Không nói cũng không ai biết. Những câu chuyện trong bóng tối này mãi mãi không bước ra ánh sáng, hoặc cũng chỉ rất ít người biết đến, thấu rõ đường đi nước bước của thánh địa tin giả này, cho đến khi cuốn sách “The Book Of Veles” của nhiếp ảnh gia Jonas Bendiksen được xuất bản. Ông là người Na-Uy, thành viên của hội nhiếp ảnh danh giá Magnumphoto.
Có nghiên cứu đã chỉ ra rằng sắc đẹp sẽ mang lại lợi thế trong các mối quan hệ, học tập và công việc. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu việc “không được đẹp đẽ” không chỉ là một điều bất lợi mà còn bị coi là phạm pháp? Từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, ở Hoa Kỳ từng có các luật gọi là “luật xấu xí” (ugly laws), cấm những người có vẻ ngoài “khó coi” xuất hiện ở các nơi công cộng.
Dự án 2025 đề ra những thay đổi sâu rộng trong toàn bộ chính phủ liên bang, đặc biệt trong chính sách kinh tế và xã hội, và vai trò của chính phủ và các cơ quan liên bang. Trong những thay đổi đó có cả việc cắt giảm tài trợ cho Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (DOJ), tháo dỡ cơ quan điều tra FBI và Bộ An ninh Nội địa, hủy bỏ các quy định về môi trường và biến đổi khí hậu để giúp gia tăng sản xuất nhiên liệu như dầu hỏa, cùng loại bỏ các Bộ Giáo dục và Thương mại ra khỏi nội các chính phủ. Hãng thông tấn Associated Press có một bài tóm tắt song rành mạch những chương trình của Dự án 2025 đối nội cũng như đối ngoại, tại đường dẫn này. Bao gồm trong Dự án 2025 cũng gồm cả việc lập tức dùng Đạo luật nổi dậy năm 1807 để tổng thống có thể ra lệnh cho quân đội vào dẹp các vụ biểu tình chống đối chính phủ, cùng chỉ đạo Bộ Tư pháp truy lùng các đối thủ của ông Trump. Chính ông Trump cũng đã từng tuyên bố với những người ủng hộ ông là ông là người sẽ giúp họ phục hận. Theo luật hiện hành, quân đội không đượ
Nghèo đói là yếu tố quyết định mạnh mẽ của bệnh Lao. Môi trường sống và làm việc đông đúc và kém thông gió thường liên quan đến nghèo đói, tạo thành các yếu tố gây nguy cơ trực tiếp cho việc lây truyền bệnh lao. Suy dinh dưỡng cũng là một yếu tố nguy cơ quan trọng để bệnh phát triển. Nghèo đói lại cũng liên quan đến tình trạng kém kiến thức về sức khỏe và từ đó thiếu những sự bảo vệ sức khỏe trong đời sống hàng ngày dẫn đến nguy cơ tiếp xúc và truyền bệnh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.