Hôm nay,  

Trang Thơ Tháng Tư

19/04/202317:09:00(Xem: 968)

Ukraine_pic

THY AN

 

Tháng tư và những nỗi buồn

 

ngoi lên từ hầm trú bom

giật mình ngơ ngác

lâu lắm chưa thấy hướng dương bên cửa

hoa tơi tả như lá cờ Ukraine xanh vàng

chẳng thấy ánh mặt trời

tháp chuông tan nát

khát khao nắng mùa xuân đỉnh ngọn

chiều mưa có tóc em bay

ta ngồi đây run tay cầm súng

làm sao không thể run tay

khi ta chưa bao giờ cầm súng

ngày cũ, ngày mới đều viết bằng máu và nước mắt

của bạn bè ra đi không trở lại

thương quê hương khổ ải đọa đày

người đàn bà sang Bruxelles tỵ nạn

mỗi đêm thương nhớ chồng con

‘tôi cám ơn nước Bỉ đã cưu mang

để chồng con tôi ở lại vững lòng chiến đấu

tôi xin nguyện sẽ không làm phiền quý vị

cầu Trời ban bình an

cho tôi sớm trở về

dù quê hương đổ nát điêu tàn’

 

tháng tư nỗi buồn trầm tích Việt Nam

biển rộng sông dài

một trời ký ức mênh mang sương khói

một thời để nhớ

và một thời để quên

nhìn thế giới tràn lan biến động

Âu, Á, Trung Đông

Thái Bình Dương, Hắc Hải

Bắc Hàn, Đài Loan

hỏa tiễn, chiến xa, hàng không mẫu hạm

còn nơi nào bình yên

cho ta hái đóa mộc lan màu hồng

tặng những người yêu nhau

trên quê hương khốn khó

nhắc nhau những mùa tang thương đẫm lệ

và đi lên đồi xanh

cúi đầu trên mộ những người đã nằm xuống

để ta sống yên lành...

 

ôi những con đường nhân duyên thầm lặng

viễn xứ quê người

bao la trong ta…

 

 

– thy an


*** 

phu-ninh-lake-the-beautiful-ink-picture (1) 

TRẦN YÊN HÒA

 

Gởi cô gái Tam Kỳ, đất khổ

 

Em lớn lên theo những vồng khoai

vồng khoai lang chảy dài cồn cát

cái nóng se khô, cơn mưa dứt hạt

em le te đội nón qua cầu

 

Em đạp xe đi học trường làng

mẹ gắng cho em kiếm ba mớ chữ

cắn chữ làm đôi đọc thư tình anh gởi

cái nghĩa yêu đương mù mịt quá chừng

 

Rồi mười lăm tuổi lên trung học

khung trời thị xã, cổng trường vôi

áo dài như bướm bay phất phới

em mang theo hồn anh đi đâu?

 

Cô nữ sinh quê lên tỉnh học

rất đẹp như trời buổi chớm thu

cái hồn nhiên cùng màu lụa trắng

làm anh xao động giữa sa mù

 

Tình ta như vồng khoai trên cát

bát ngát là hoa tụ với cành

bát ngát lòng anh muôn cánh hạc

giữa trời thị xã rộng thênh thang

 

Rồi chiến tranh chia biệt con người

em giạt về đâu anh chẳng biết

cuộc tình ta chưa lời chia biệt

mà em xa ngút mắt anh rồi

 

Cuộc chiến tranh như loài bạch tuộc

cuốn trôi anh, lên thác, xuống ghềnh

cuốn trôi em, rạc rài, hun hút

cô gái Tam Kỳ, đất khổ lênh đênh

 

Thời gian... mười năm, hai mươi năm

ơi thời gian vô tình quá đỗi

anh gặp lại em ngày Tam Kỳ gió nổi

cái nóng khô ran như đôi mắt em chừ

 

Đôi mắt em xưa là một dòng sông

có bóng dáng anh lung linh trong đó

đôi mắt em nay như cánh buồm đen

cô gái Tam Kỳ, suốt đời nhỏ lệ

 

Thời gian qua... đã mấy mươi năm

nhánh sông tuổi thơ vẫn còn chảy mãi

Tam Kỳ và ta một thời thơ dại

đốt đuốc tìm hoài cái thuở mười lăm

 

Đốt đuốc soi cái chỗ em nằm

và soi lại ta vùng thơ ấu cũ

thương quá em ơi anh không đủ chữ

giảng nghĩa giùm anh cái chữ ân tình

 

Cô gái Tam Kỳ, đất khổ của anh

bây giờ ra răng, muôn đời rứa hỉ.

   

 

Một thuở Tam Kỳ

 

Hồn rất lạ giữa bến bờ mông quạnh

ngày đi qua miền viễn xứ long đong

có một chút nắng vàng trong cốc lạnh

mùa xuân xưa còn vọng tuổi thơ hồng

 

Có một dạo em ngồi hong tóc ướt

áo vàng bay chiều lạc lối đi về

nghe tim gọi từng đêm lòng thổn thức

vết son nào còn lại nỗi si mê

 

Có một chút lòng em còn để lại

chút hương thơm của một thuở Tam Kỳ

năm tháng ấy còn in mùi hoa dại

áo trắng bay cho lòng ta tình si

 

Một chút nắng một chút mưa một thuở

cõi lòng ta mưa gió tạc ngùi ngùi

em giữ mãi trong lòng ta nỗi nhớ

và mùi hương ngào ngạt mãi khôn nguôi

 

-- Trần Yên Hòa

 

***

Louis_Soutter_Tête_de_face
Tête de face của Louis Soutter (1871-1942).

QUẢNG TÁNH TRẦN CẦM

 

như bạn nói

 

đã có lần tôi nghe bạn nói 

độc đặc  ̶ ̶ ̶ 

(ghép hai từ độc đáođặc biệt

 

nghe xa lạ

nặng nề tựa đao to kề bên cổ

ghê gớm như độc dược nhét vào miệng

chì đun chảy đổ vào mồm

 

dường như tôi gặp lại bạn trong giấc mơ đêm qua

đâu đó chốn đông người

sắc màu độc đặc  ̶ ̶ ̶ 

nếu không là san fran

thì cũng kobe  ̶ ̶ ̶ 

 

và trên dưới bạn vẫn bụi

vẫn cháy rực rỡ

không nuối tiếc 

dù thời gian ủ men ngậm ngùi

 

trên nẻo đường năm tháng 

bước chân khập khiễng nao lòng

thôi thì đáo biệt  ̶ ̶ ̶  tưởng chừng

 

nghe bạn nói  ̶ ̶ ̶  trái tim giờ thì cạn kiệt

chẳng còn máu me gì mẹ nó

trống rỗng rỗng tuếch rỗng toang

 

sáng tạo kiến tạo tái tạo?

đâu là tôn sắt thép xà gồ?  

 

 

rewind

 

nhớ ngày lễ hội

rực đỏ cờ xí biểu ngữ như tuồng hát bộ

chạy trốn sau lưng tượng đài cao ngất

mùi ám ảnh đặc quánh không rời

lan tỏa lượn vòng vèo theo cơn gió nóng

 

u u tiếng hú quanh bờ tường

khàn hơi khản cổ rao giảng bài lạc điệu

trái đất vụng về xoay tới xoay lui

ừ thì muôn năm cái này muôn năm cái nọ

cố lách mình cúi mặt đi qua

 

từng chữ mệt mỏi gõ ra

từng chữ lọt thỏm vào hư không

đau đáu nỗi buồn kho quẹt

chờ tiếng kẻng báo tin cởi trói

 

nhớ nụ cười nàng đóng khung trên vách

bên kim đồng hồ chết đứng sau cơn bão đầu đông

vẫn nghe tiếng gió gào thét từ đêm mưa lạnh

tru tréo xin trở lại giấc mơ hôm nào

 

như phản xạ

nàng nhấn nút rewind về phút định mệnh

cố gắng bôi xóa dấu vết những ngày qua  ̶ ̶ ̶ 

và hôm nay đột nhiên tan chảy không ngừng nghỉ. 

 

-- Quảng Tánh Trần Cầm

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm đó, một chàng đương từ Sài Gòn đạp xe tới thăm bạn ở Làng Báo Chí bên kia cầu xa lộ. Chàng vừa đạp xe tới cầu thì gặp bạn cũng đương từ bên kia cầu phóng sang dự định về Sài Gòn thăm mình...
Có một người sống trong thành phố, bận rộn, tranh đấu, xông pha, lăn lộn giữa sự phức tạp như một sinh trùng bị mắc lưới nhện vẫn phải vùng vẫy để sống, để chờ ngày bị ăn thịt. Một hôm, ông ta đi du lịch, thấy một phong cảnh đẹp đến mức lặng người, cảm thấy siêu thoát, nhận ra đạo lý của mục tiêu tại sao con người tồn tại. Nhưng vẫn phải trở về phố cũ, y như Lưu Nguyễn phải trở về làng cũ vì những lý do chính xác, vì lẽ phải của những bổn phận làm người. Ông vẽ lại phong cảnh đó trên một vách tường lớn. Mỗi khi đời giông bão, mỗi khi hồn âm u, mỗi khi trí khổ não, ông đến trước bức tranh, nhìn ngắm, ngẫm nghĩ để tìm thấy sự thanh thản, sở hữu cảm giác bình an. Ông nghe được tiếng hát “chiều nay vang lừng trên sóng.” Ông thấy được “Âm ba thoáng rung cánh đào rơi. Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.” Hồn ông “lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan.” Những giờ phút tĩnh lặng đó, tâm trí ông “Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quên … là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi…”
Bùi Giáng qua đời tại Sài-gòn tháng 10-1998, tới tháng 10 năm này, 2023, đúng là 25 năm, một phần tư thế kỷ “Vắng bóng người Điên giữa kinh thành”. Trong tất cả các bút hiệu của Bùi Giáng, Sáu Giáng là tên hiệu dễ thương với mọi người, Bùi Giáng lại thích “anh Sáu Giáng” nhất; bởi/từ cái gốc gác quê mùa, đồi sim, ruộng lúa, tiếng gà trưa, con cò bãi nước xa, cái nền nhà lát gạch hoa, đứa con thứ sáu trong gia đình tộc Bùi, thằng bé Giáng tập bò tập đi.
Tôi để ý đến hắn, không phải vì cái tên với cái họ “lạ”, họ Mai. Cũng chẳng phải vì hắn là công tử con nhà giàu. Nghe nói ba hắn đi qua Mỹ từ ngày chạy loạn 30/4, nên cuộc sống mấy mẹ con rất ung dung khá giả. Mới học lớp 6 thôi, mà hắn đi học mặc quần tây áo sơ mi “đóng thùng” chỉnh tề, mang giày xăng-đan, tay còn đeo chiếc đồng hồ nữa cơ...
Ghi lên đá một thuở áo sờn vai / Vác thập ác quảy tiêu điều âm vọng / Nợ máu xương, nợ người lận đận / Của một thời vàng tím trẻ trai...
Một buổi trưa chan hòa ánh nắng trong vắt như thủy tinh của một ngày nắng ấm cuối đông, chớm bước sang xuân. Cảnh vật như bừng sáng dậy sau những ngày u ám. Tôi và Thi ngồi bên nhau tại một nơi vắng vẻ trong khu vườn sau nhà, dưới tàn cây mít, gần bên chiếc cầu ao soi bóng lung linh trên mặt nước đang gợn sóng lăn tăn...
Tôi có một người anh cá tính hoang nghịch trổ trời mà lên. Từ nhỏ, thích trèo cây trong vườn. Có bữa leo phải cành ổi giòn bị gãy, thế là anh rớt xuống nghe uỵch một cái như trái mít rụng. Anh đau điếng cảm giác rêm ram cả mạnh sườn...
Hồi ở trại tỵ nạn Thailand, tôi có lúc đã quay cuồng “chạy sô” đi học 4 thứ tiếng.
Thơ của hai thi sĩ Thy An & Lê Minh Hiền
Nhận được bài thơ của người bạn Phạm Xuân Tích, tôi thấy bài thơ của ông bạn khá độc đáo và lý thú, tôi mạo muội viết lại sao y bản chính – cả hai bản tiếng Pháp và bản dịch tiếng Việt cũng của ông ấy, để hầu các vị đọc cho vui...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.