Hôm nay,  

Tôi là cái thây ma

18/11/202200:00:00(Xem: 2270)

 

Ferit
Nhà Văn Thổ Nhĩ Kỳ FERIT ORHAN PAMUK và cuốn sách của ông.

 

FERIT ORHAN PAMUK (sinh 1952) là nhà văn danh giá nhất của xứ Thổ Nhĩ Kỳ thời hiện đại. Năm 2006, ông trở thành nhà văn đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ được trao giải Nobel Văn chương. Tác phẩm của ông được dịch ra 63 ngôn ngữ, phát hành trên 13 triệu ấn bản và được cả thế giới đón đọc. Ông dạy kỹ thuật viết văn và Văn học Tỉ giảo tại đại học Columbia, New York. Năm 2018, ông được bầu vào Hội Triết học Hoa kỳ. Trích đoạn dưới đây là từ tác phẩm My Name is Red (Tên tôi là Đỏ), tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, đã đoạt những giải thưởng danh dự sau: Prix du Meilleur Livre Étranger (2002); Premio Grinzane Cavour (2002); và International Dublin Literary Award (2003).
   

Không có nhân vật chính diện nào trong tác phẩm tiểu thuyết này của Pamuk, mà là một tập hợp những nhân vật và đồ vật – một cái thây ma mới bị giết oan uổng, một đồng tiền, ác quỷ Satan, màu đỏ, hai chức sắc Hồi giáo, v.v… – mỗi “thứ” như thế chiếm phần tự sự mỗi chương sách. Bối cảnh lịch sử là Đế quốc Ottoman thế kỷ XVI, và nền tảng triết học Hồi giáo dĩ nhiên là trọng điểm của cuốn tiểu thuyết, nhưng cũng có những phân đoạn thấm đẫm tính kỳ bí và trữ tình. Đọc tác phẩm, độc giả người Việt có thể nhận ra một điểm tương đồng giữa Hồi giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam là, sau khi chết, linh hồn con người vẫn tồn tại trên thế gian và có thể nghe ngóng những gì người sống nói.
   

Kỹ thuật viết văn của Orhan Pamuk có thể được xem là chịu ảnh hưởng Jorge Luis Borges, lối viết siêu hư cấu, với những ý thức thường xuyên nhắc nhở người đọc rằng hắn đang đọc một tác phẩm hư cấu. (TYT).
 

Giờ đây tôi chỉ còn là cái thây ma, cái xác chết nằm dưới đáy giếng. Mặc dù tôi hít vào hơi thở cuối cùng cách đây khá lâu và tim tôi đã ngừng đập, không ai, ngoại trừ tên sát nhân đê tiện đó, hay biết chuyện gì xảy đến cho tôi. Cái thằng khốn kiếp, gã bấm mạch tôi, nghe ngóng hơi thở xem tôi còn sống hay thật sự chết rồi, đoạn gã đá vào bụng tôi, lôi tôi lại bờ giếng, nhấc tôi lên rồi ném tôi xuống đáy giếng. Trong lúc rơi xuống, đầu tôi, cái đầu bị gã dùng tảng đá nện vỡ, bứt lìa khỏi thân mình; mặt tôi, trán, hai má nát ngướu, xương trong người gãy vụn, và miệng thì đầy máu.
   

Suốt gần bốn ngày trời tôi mất tích: Vợ con tôi chắc hẳn đang bổ ra đi tìm tôi; con gái tôi, kiệt lực vì khóc, chắc đang ném cái nhìn lo âu ra ngoài cổng. Vâng, tôi biết tất cả mọi người trong gia đình tôi đang ngồi bên cửa sổ, chờ đợi tôi về nhà.

   
Nhưng có thật gia đình tôi đang chờ tôi không? Ngay cả chuyện đó tôi cũng chẳng lấy gì làm chắc chắn. Biết đâu mấy người đã quá quen với cảnh tôi vắng nhà – thật đáng buồn! Bởi nơi đây, nơi bến bờ bên kia, người ta có cảm tưởng như kiếp trước mình vẫn đeo đẳng khôn rời. Trước khi tôi ra đời, thời gian dài vô tận, và sau khi tôi chết, thời gian chẳng bao giờ chấm dứt. Trước đây tôi chẳng bao giờ nghĩ vậy: tôi sống một đời sống sáng láng lèn giữa hai vùng miên viễn của bóng tối thâm đen.

   
Thuở đó tôi hạnh phúc lắm; bây giờ tôi mới nhận ra tôi đã sống cuộc đời thật hạnh phúc. Tôi là tay minh họa giỏi nhất trong xưởng in Quốc Vương Ta; tài nghệ tôi không ai sánh kịp. Qua công việc làm tư, mỗi tháng tôi kiếm chín trăm đồng quan bạc, và điều này chỉ khiến nỗi đau đớn trong tôi tăng bội phần.

   
Trong xưởng in, tôi phụ trách phần minh họa. Tôi vẽ lên rìa trang sách những hình ảnh sống động nhất, lá cành, hoa bướm, chim muông. Tôi vẽ mây kiểu Trung hoa trông như con sò biển, tôi vẽ những rặng nho lớp lớp chất chồng, và những rừng màu sắc ẩn giấu hươu nai, lũng trảng, vua chúa, cây cối, lâu đài, ngựa và thợ săn. Thuở còn trẻ, tôi cũng tô vẽ dĩa ăn, mặt sau gương soi, hòm gỗ, hoặc đôi khi trần nhà một dinh thự, đại sảnh Bosphorus, hoặc một cái thìa gỗ. Tuy thế, những năm về sau, tôi chuyên chú vào việc vẽ bản thảo vì xưởng Quốc Vương Ta trả lương hậu hĩ cho công việc này. Tôi không thể bảo điều đó giờ đây có vẻ tầm thường quá. Bạn biết giá trị đồng tiền ngay cả sau khi bạn qua đời.

   
Sau khi nghe ra phép nhiệm màu của giọng nói tôi, có lẽ bạn sẽ nghĩ, “Ai thèm để ý đến chuyện ông làm bao nhiêu tiền lúc còn sống? Hãy nói cho chúng tôi nghe những gì ông chứng kiến. Có thật có đời sống sau khi chết? Linh hồn ông trôi về đâu? Thiên đường và địa ngục? Thế nào là chết? Ông có đau đớn không?” Bạn đúng đấy, con người ai cũng vô cùng tò mò, muốn biết về cái Kiếp Sau. Có lẽ bạn từng nghe câu chuyện kẻ bị tính tò mò đó thôi thúc đến nỗi gã chạy quàng xiên giữa đoàn quân đang giao tranh ngoài chiến địa. Giữa những vũng máu của đám quân lính bị thương đang bám víu lấy sự sống, gã sục sạo cố tìm ra kẻ chết đi sống lại, một người lính có thể kể lại những bí mật của thế giới bên kia. Nhưng một chiến sĩ phe Tamerlane, lầm tưởng gã là quân địch, vung nhát kiếm sắc lịm bổ dọc gã làm đôi, khiến gã đi đến kết luận rằng ở Kiếp Sau con người bị chẻ làm đôi.

   
Thật tầm bậy! Ngược lại là đằng khác, tôi có thể minh chứng linh hồn bị chia cắt lúc còn sống sẽ được tái nhập ở Kiếp Sau. Trái với những gì bọn vô đạo đầy tội lỗi bị Quỷ nhập phán bảo, quả có thế giới khác, đội ơn Thượng đế vô cùng, và bằng chứng là từ nơi đây tôi đang chuyện trò cùng bạn. Tôi chết rồi, nhưng như bạn thấy rõ ràng tôi vẫn hiện hữu. Được rồi, tôi đành thú nhận rằng tôi vẫn chưa nhìn thấy dòng sông chảy bên cạnh đền đài vàng bạc của Thiên đường, vẫn chưa thấy hàng cây với tàn lá rộng trĩu nặng mận ngon, và vẫn chưa thấy trinh nữ nào như điều ghi chép trong quyển kinh Koran Sáng Láng – mặc dù tôi nhớ rất rõ không biết bao lần tôi say sưa tô điểm những nàng tiên nữ mắt mở lớn miêu tả trong chương “Cái Đang Đến.” Cũng chẳng có dấu vết gì của những dòng sông sữa, rượu, nước trong và mật ngọt cuộn chảy, miêu tả đầy văn hoa, không phải trong kinh Koran, mà bởi những tâm hồn mơ tiên như Ibn Arabi. Nhưng chủ đích của tôi không phải thách đố lòng tin những ai sống đời sống công chính qua hy vọng và cái nhìn của họ về Thế Giới Bên Kia, vì thế hãy để tôi dõng dạc lên tiếng rằng tất cả những điều tôi trông thấy chẳng qua chỉ là cái gì liền lạc với cảnh huống rất riêng tư của tôi. Bất kỳ tín đồ nào, ngay cả người hiểu biết rất ít ỏi về cõi đời sau, cũng biết rõ kẻ bất mãn trong trạng huống như tôi đều cố sức tìm cách trông thấy dòng sông trên Thiên đường.

   
Nói tóm lại, tôi, người được mệnh danh là Thầy Effendi Thanh Lịch, đã chết, nhưng tôi chưa bị chôn vùi vào hư vô, vì thế linh hồn tôi chưa rời khỏi thân xác. Cảnh huống vô cùng kỳ diệu này, mặc dù trên đời không phải lần đầu xảy ra, đã gây nên nỗi đau đớn vô biên cho phần hồn bất tử trong tôi. Mặc dù thân xác tôi chẳng còn cảm giác gì nữa, xương sọ vỡ nát, thịt da đầy thương tích đang thối rữa dần, xương trong người gãy vụn và nước giếng lạnh như nước đá ngập gần kín người, tôi vẫn cảm thấy nỗi thống khổ sâu thẳm của linh hồn tôi, nó đang cố hết sức vùng vẫy trong tuyệt vọng mong thoát ra khỏi phần thân xác. Tưởng như cả thế gian này, kể cả thân xác tôi, đang co rút lại thành khối đặc khổ não.

   
Tôi chỉ có thể so sánh sự co rút này với cảm giác giải thoát lạ lẫm tôi cảm thấy trong lúc đón nhận cái chết. Vâng, tôi hiểu ngay tên khốn kiếp đó muốn giết tôi khi bất ngờ gã cầm tảng đá đập vỡ xương sọ tôi, nhưng tôi không tin gã có thể tiếp tục ra tay hoàn tất những gì sau đó. Đột nhiên, tôi nhận ra tôi là người hy vọng, một điều tôi không hề hay biết khi còn sống dưới bóng mát con đường từ xưởng vẽ về nhà. Bằng tất cả ý chí, tôi bám víu vào sự sống, móng tay tôi, ngón tay tôi, hàm răng tôi, cắm sâu vào da thịt tên sát nhân. Tôi sẽ chẳng để bạn nhàm chán với chi tiết những cú đánh, cú đập chí tử tôi nhận lãnh sau đó.

   
Trong lúc lãnh chịu nỗi đau đớn tột đỉnh này và tôi biết tôi sẽ chết, cảm giác như đang được giải thoát thật lạ lùng bỗng xâm chiếm tâm hồn tôi. Tôi cảm thấy như vậy trong lúc thăng thoát; chuyến đi của tôi sang bến bờ bên này thật êm ái, dễ chịu, như trong giấc mơ nhìn thấy chính mình đang ngủ. Đôi giày lấm đầy tuyết và bùn của tên sát nhân là hình ảnh cuối cùng tôi nhìn thấy. Tôi nhắm mắt lại như thể tôi sắp ngủ, và tôi nhẹ nhàng chết.

   
Tôi than thở bây giờ chẳng phải vì răng tôi rụng như đống đinh ốc trong miệng đầy máu, chẳng phải vì mặt tôi nát ngướu không còn ra hình thù gì, cũng chẳng phải bởi tôi bị bỏ rơi trong lòng cái giếng sâu này – mà bởi mọi người nghĩ tôi còn sống. Linh hồn khốn quẫn của tôi cứ day dứt mãi khi nghĩ gia đình tôi và những người thân quen – vâng, họ thường xuyên nghĩ đến tôi – tưởng tượng tôi đang bận dăm ba việc lặt vặt ở Istanbul, hay cũng có thể đang chạy theo tán tỉnh mụ đàn bà nào khác. Đủ rồi! Hãy lập tức đi tìm xác chết tôi, hãy cầu nguyện cho tôi và cho tôi một nấm mồ. Quan trọng hơn hết, hãy tìm ra kẻ giết tôi! Bởi ngay cả nếu tôi được chôn cất tử tế, mồ yên mả đẹp, mà tên giết người đó vẫn ung dung tự tại ngoài đời thì tôi sẽ trăn trở không ngừng dưới đáy mộ, đợi chờ, và gieo mầm độc vô đạo lên tất cả mấy người. Hãy tìm ra tên sát nhân chó đẻ đó và tôi sẽ kể mấy người nghe những gì tôi trông thấy ở Kiếp Sau – nhưng hãy biết thêm điều này, khi bắt được gã, phải tra tấn gã bằng cách đập từ từ đến nát ngấu tám hay mười khúc xương của gã, tốt nhất là xương sườn, dùng kềm vặn mà bẻ, sau đó hãy đâm thủng da đầu gã bằng những mũi kim sắt nhọn người ta chuyên dùng trong việc tra tấn, rồi nhổ từng sợi tóc ghê tởm bê bết dầu của gã cho gã thét lên từng hồi.

   
Tên sát nhân làm tôi khổ sở dường vậy là ai? Tại sao gã thình lình giết tôi chết? Hãy chú tâm và để ý những dữ kiện như vậy. Bạn chẳng bảo thế gian đầy dẫy những tên tội phạm bất hảo chuyên hãm hại người lành đấy ư? Không chừng chính tên này là thủ phạm, biết đâu tên kia? Trong trường hợp đó, hãy cho tôi nhắc chừng bạn: Cái chết của tôi che đậy một âm mưu kinh khiếp chống phá tôn giáo, cắt đứt truyền thống của chúng ta, ngăn trở cách thế chúng ta nhìn vào thế giới. Hãy mở mắt cho to, hãy nhìn ra lý do vì sao kẻ thù của kiếp sống bạn đang tin tưởng, của cuộc đời bạn đang sống, và của tôn giáo bạn đang tôn thờ, lại giết chết tôi. Hãy tìm ra lý do vì sao một ngày kia chúng sẽ làm điều đó với bạn. Lần lượt, tất cả những gì tiên đoán bởi nhà truyền giáo đại tài Nusret Hoja của miền Erzurum, người tôi chảy nước mắt khi nghe nói chuyện, đều trở thành sự thật. Hãy cho tôi nói thêm giả như cảnh huống chúng ta đang lâm vào đó được miêu tả trong một quyển sách thì ngay cả người tế họa tài ba nhất cũng chẳng bao giờ hy vọng có thể minh họa nổi. Với quyển kinh Koran – đó là ý Trời nếu tôi bị hiểu lầm – một quyển sách như vậy hàm chứa sức mạnh vô song chỉ vì không ai có khả năng miêu tả được nó. Tôi không chắc bạn thấu triệt được điều này.

   
Hãy nghe tôi nói đây. Hồi mới ra ràng, tôi cũng ôm ấp nỗi sợ hãi và vì thế tôi giả lờ như không biết đến sự thật cơ bản và những tiếng nói vọng về từ cõi xa xăm. Tôi còn đem mấy chuyện đó ra bông đùa. Nhưng cuối cùng tôi bỏ xác dưới đáy giếng thảm hại này! Coi chừng, có ngày bạn cũng bị như vậy đấy. Giờ đây, tôi chẳng biết làm gì hơn ngoài hy vọng xác thân tôi sẽ tan rữa thật kỹ và bốc mùi hôi thối để người ta tìm ra tôi. Tôi chỉ còn biết hy vọng như vậy thôi – và tưởng tượng cảnh tên sát nhân bị tra tấn như thế nào sau khi có người lương hảo nào đó tóm được gã.

 

Orhan Pamuk

Trịnh Y Thư dịch

 

(Trích đoạn tiểu thuyết My Name is Red, NXB Alfred A. Knopf, 2001.)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.