Hôm nay,  

Tôi là cái thây ma

18/11/202200:00:00(Xem: 1507)

 

Ferit
Nhà Văn Thổ Nhĩ Kỳ FERIT ORHAN PAMUK và cuốn sách của ông.

 

FERIT ORHAN PAMUK (sinh 1952) là nhà văn danh giá nhất của xứ Thổ Nhĩ Kỳ thời hiện đại. Năm 2006, ông trở thành nhà văn đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ được trao giải Nobel Văn chương. Tác phẩm của ông được dịch ra 63 ngôn ngữ, phát hành trên 13 triệu ấn bản và được cả thế giới đón đọc. Ông dạy kỹ thuật viết văn và Văn học Tỉ giảo tại đại học Columbia, New York. Năm 2018, ông được bầu vào Hội Triết học Hoa kỳ. Trích đoạn dưới đây là từ tác phẩm My Name is Red (Tên tôi là Đỏ), tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, đã đoạt những giải thưởng danh dự sau: Prix du Meilleur Livre Étranger (2002); Premio Grinzane Cavour (2002); và International Dublin Literary Award (2003).
   

Không có nhân vật chính diện nào trong tác phẩm tiểu thuyết này của Pamuk, mà là một tập hợp những nhân vật và đồ vật – một cái thây ma mới bị giết oan uổng, một đồng tiền, ác quỷ Satan, màu đỏ, hai chức sắc Hồi giáo, v.v… – mỗi “thứ” như thế chiếm phần tự sự mỗi chương sách. Bối cảnh lịch sử là Đế quốc Ottoman thế kỷ XVI, và nền tảng triết học Hồi giáo dĩ nhiên là trọng điểm của cuốn tiểu thuyết, nhưng cũng có những phân đoạn thấm đẫm tính kỳ bí và trữ tình. Đọc tác phẩm, độc giả người Việt có thể nhận ra một điểm tương đồng giữa Hồi giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam là, sau khi chết, linh hồn con người vẫn tồn tại trên thế gian và có thể nghe ngóng những gì người sống nói.
   

Kỹ thuật viết văn của Orhan Pamuk có thể được xem là chịu ảnh hưởng Jorge Luis Borges, lối viết siêu hư cấu, với những ý thức thường xuyên nhắc nhở người đọc rằng hắn đang đọc một tác phẩm hư cấu. (TYT).
 

Giờ đây tôi chỉ còn là cái thây ma, cái xác chết nằm dưới đáy giếng. Mặc dù tôi hít vào hơi thở cuối cùng cách đây khá lâu và tim tôi đã ngừng đập, không ai, ngoại trừ tên sát nhân đê tiện đó, hay biết chuyện gì xảy đến cho tôi. Cái thằng khốn kiếp, gã bấm mạch tôi, nghe ngóng hơi thở xem tôi còn sống hay thật sự chết rồi, đoạn gã đá vào bụng tôi, lôi tôi lại bờ giếng, nhấc tôi lên rồi ném tôi xuống đáy giếng. Trong lúc rơi xuống, đầu tôi, cái đầu bị gã dùng tảng đá nện vỡ, bứt lìa khỏi thân mình; mặt tôi, trán, hai má nát ngướu, xương trong người gãy vụn, và miệng thì đầy máu.
   

Suốt gần bốn ngày trời tôi mất tích: Vợ con tôi chắc hẳn đang bổ ra đi tìm tôi; con gái tôi, kiệt lực vì khóc, chắc đang ném cái nhìn lo âu ra ngoài cổng. Vâng, tôi biết tất cả mọi người trong gia đình tôi đang ngồi bên cửa sổ, chờ đợi tôi về nhà.

   
Nhưng có thật gia đình tôi đang chờ tôi không? Ngay cả chuyện đó tôi cũng chẳng lấy gì làm chắc chắn. Biết đâu mấy người đã quá quen với cảnh tôi vắng nhà – thật đáng buồn! Bởi nơi đây, nơi bến bờ bên kia, người ta có cảm tưởng như kiếp trước mình vẫn đeo đẳng khôn rời. Trước khi tôi ra đời, thời gian dài vô tận, và sau khi tôi chết, thời gian chẳng bao giờ chấm dứt. Trước đây tôi chẳng bao giờ nghĩ vậy: tôi sống một đời sống sáng láng lèn giữa hai vùng miên viễn của bóng tối thâm đen.

   
Thuở đó tôi hạnh phúc lắm; bây giờ tôi mới nhận ra tôi đã sống cuộc đời thật hạnh phúc. Tôi là tay minh họa giỏi nhất trong xưởng in Quốc Vương Ta; tài nghệ tôi không ai sánh kịp. Qua công việc làm tư, mỗi tháng tôi kiếm chín trăm đồng quan bạc, và điều này chỉ khiến nỗi đau đớn trong tôi tăng bội phần.

   
Trong xưởng in, tôi phụ trách phần minh họa. Tôi vẽ lên rìa trang sách những hình ảnh sống động nhất, lá cành, hoa bướm, chim muông. Tôi vẽ mây kiểu Trung hoa trông như con sò biển, tôi vẽ những rặng nho lớp lớp chất chồng, và những rừng màu sắc ẩn giấu hươu nai, lũng trảng, vua chúa, cây cối, lâu đài, ngựa và thợ săn. Thuở còn trẻ, tôi cũng tô vẽ dĩa ăn, mặt sau gương soi, hòm gỗ, hoặc đôi khi trần nhà một dinh thự, đại sảnh Bosphorus, hoặc một cái thìa gỗ. Tuy thế, những năm về sau, tôi chuyên chú vào việc vẽ bản thảo vì xưởng Quốc Vương Ta trả lương hậu hĩ cho công việc này. Tôi không thể bảo điều đó giờ đây có vẻ tầm thường quá. Bạn biết giá trị đồng tiền ngay cả sau khi bạn qua đời.

   
Sau khi nghe ra phép nhiệm màu của giọng nói tôi, có lẽ bạn sẽ nghĩ, “Ai thèm để ý đến chuyện ông làm bao nhiêu tiền lúc còn sống? Hãy nói cho chúng tôi nghe những gì ông chứng kiến. Có thật có đời sống sau khi chết? Linh hồn ông trôi về đâu? Thiên đường và địa ngục? Thế nào là chết? Ông có đau đớn không?” Bạn đúng đấy, con người ai cũng vô cùng tò mò, muốn biết về cái Kiếp Sau. Có lẽ bạn từng nghe câu chuyện kẻ bị tính tò mò đó thôi thúc đến nỗi gã chạy quàng xiên giữa đoàn quân đang giao tranh ngoài chiến địa. Giữa những vũng máu của đám quân lính bị thương đang bám víu lấy sự sống, gã sục sạo cố tìm ra kẻ chết đi sống lại, một người lính có thể kể lại những bí mật của thế giới bên kia. Nhưng một chiến sĩ phe Tamerlane, lầm tưởng gã là quân địch, vung nhát kiếm sắc lịm bổ dọc gã làm đôi, khiến gã đi đến kết luận rằng ở Kiếp Sau con người bị chẻ làm đôi.

   
Thật tầm bậy! Ngược lại là đằng khác, tôi có thể minh chứng linh hồn bị chia cắt lúc còn sống sẽ được tái nhập ở Kiếp Sau. Trái với những gì bọn vô đạo đầy tội lỗi bị Quỷ nhập phán bảo, quả có thế giới khác, đội ơn Thượng đế vô cùng, và bằng chứng là từ nơi đây tôi đang chuyện trò cùng bạn. Tôi chết rồi, nhưng như bạn thấy rõ ràng tôi vẫn hiện hữu. Được rồi, tôi đành thú nhận rằng tôi vẫn chưa nhìn thấy dòng sông chảy bên cạnh đền đài vàng bạc của Thiên đường, vẫn chưa thấy hàng cây với tàn lá rộng trĩu nặng mận ngon, và vẫn chưa thấy trinh nữ nào như điều ghi chép trong quyển kinh Koran Sáng Láng – mặc dù tôi nhớ rất rõ không biết bao lần tôi say sưa tô điểm những nàng tiên nữ mắt mở lớn miêu tả trong chương “Cái Đang Đến.” Cũng chẳng có dấu vết gì của những dòng sông sữa, rượu, nước trong và mật ngọt cuộn chảy, miêu tả đầy văn hoa, không phải trong kinh Koran, mà bởi những tâm hồn mơ tiên như Ibn Arabi. Nhưng chủ đích của tôi không phải thách đố lòng tin những ai sống đời sống công chính qua hy vọng và cái nhìn của họ về Thế Giới Bên Kia, vì thế hãy để tôi dõng dạc lên tiếng rằng tất cả những điều tôi trông thấy chẳng qua chỉ là cái gì liền lạc với cảnh huống rất riêng tư của tôi. Bất kỳ tín đồ nào, ngay cả người hiểu biết rất ít ỏi về cõi đời sau, cũng biết rõ kẻ bất mãn trong trạng huống như tôi đều cố sức tìm cách trông thấy dòng sông trên Thiên đường.

   
Nói tóm lại, tôi, người được mệnh danh là Thầy Effendi Thanh Lịch, đã chết, nhưng tôi chưa bị chôn vùi vào hư vô, vì thế linh hồn tôi chưa rời khỏi thân xác. Cảnh huống vô cùng kỳ diệu này, mặc dù trên đời không phải lần đầu xảy ra, đã gây nên nỗi đau đớn vô biên cho phần hồn bất tử trong tôi. Mặc dù thân xác tôi chẳng còn cảm giác gì nữa, xương sọ vỡ nát, thịt da đầy thương tích đang thối rữa dần, xương trong người gãy vụn và nước giếng lạnh như nước đá ngập gần kín người, tôi vẫn cảm thấy nỗi thống khổ sâu thẳm của linh hồn tôi, nó đang cố hết sức vùng vẫy trong tuyệt vọng mong thoát ra khỏi phần thân xác. Tưởng như cả thế gian này, kể cả thân xác tôi, đang co rút lại thành khối đặc khổ não.

   
Tôi chỉ có thể so sánh sự co rút này với cảm giác giải thoát lạ lẫm tôi cảm thấy trong lúc đón nhận cái chết. Vâng, tôi hiểu ngay tên khốn kiếp đó muốn giết tôi khi bất ngờ gã cầm tảng đá đập vỡ xương sọ tôi, nhưng tôi không tin gã có thể tiếp tục ra tay hoàn tất những gì sau đó. Đột nhiên, tôi nhận ra tôi là người hy vọng, một điều tôi không hề hay biết khi còn sống dưới bóng mát con đường từ xưởng vẽ về nhà. Bằng tất cả ý chí, tôi bám víu vào sự sống, móng tay tôi, ngón tay tôi, hàm răng tôi, cắm sâu vào da thịt tên sát nhân. Tôi sẽ chẳng để bạn nhàm chán với chi tiết những cú đánh, cú đập chí tử tôi nhận lãnh sau đó.

   
Trong lúc lãnh chịu nỗi đau đớn tột đỉnh này và tôi biết tôi sẽ chết, cảm giác như đang được giải thoát thật lạ lùng bỗng xâm chiếm tâm hồn tôi. Tôi cảm thấy như vậy trong lúc thăng thoát; chuyến đi của tôi sang bến bờ bên này thật êm ái, dễ chịu, như trong giấc mơ nhìn thấy chính mình đang ngủ. Đôi giày lấm đầy tuyết và bùn của tên sát nhân là hình ảnh cuối cùng tôi nhìn thấy. Tôi nhắm mắt lại như thể tôi sắp ngủ, và tôi nhẹ nhàng chết.

   
Tôi than thở bây giờ chẳng phải vì răng tôi rụng như đống đinh ốc trong miệng đầy máu, chẳng phải vì mặt tôi nát ngướu không còn ra hình thù gì, cũng chẳng phải bởi tôi bị bỏ rơi trong lòng cái giếng sâu này – mà bởi mọi người nghĩ tôi còn sống. Linh hồn khốn quẫn của tôi cứ day dứt mãi khi nghĩ gia đình tôi và những người thân quen – vâng, họ thường xuyên nghĩ đến tôi – tưởng tượng tôi đang bận dăm ba việc lặt vặt ở Istanbul, hay cũng có thể đang chạy theo tán tỉnh mụ đàn bà nào khác. Đủ rồi! Hãy lập tức đi tìm xác chết tôi, hãy cầu nguyện cho tôi và cho tôi một nấm mồ. Quan trọng hơn hết, hãy tìm ra kẻ giết tôi! Bởi ngay cả nếu tôi được chôn cất tử tế, mồ yên mả đẹp, mà tên giết người đó vẫn ung dung tự tại ngoài đời thì tôi sẽ trăn trở không ngừng dưới đáy mộ, đợi chờ, và gieo mầm độc vô đạo lên tất cả mấy người. Hãy tìm ra tên sát nhân chó đẻ đó và tôi sẽ kể mấy người nghe những gì tôi trông thấy ở Kiếp Sau – nhưng hãy biết thêm điều này, khi bắt được gã, phải tra tấn gã bằng cách đập từ từ đến nát ngấu tám hay mười khúc xương của gã, tốt nhất là xương sườn, dùng kềm vặn mà bẻ, sau đó hãy đâm thủng da đầu gã bằng những mũi kim sắt nhọn người ta chuyên dùng trong việc tra tấn, rồi nhổ từng sợi tóc ghê tởm bê bết dầu của gã cho gã thét lên từng hồi.

   
Tên sát nhân làm tôi khổ sở dường vậy là ai? Tại sao gã thình lình giết tôi chết? Hãy chú tâm và để ý những dữ kiện như vậy. Bạn chẳng bảo thế gian đầy dẫy những tên tội phạm bất hảo chuyên hãm hại người lành đấy ư? Không chừng chính tên này là thủ phạm, biết đâu tên kia? Trong trường hợp đó, hãy cho tôi nhắc chừng bạn: Cái chết của tôi che đậy một âm mưu kinh khiếp chống phá tôn giáo, cắt đứt truyền thống của chúng ta, ngăn trở cách thế chúng ta nhìn vào thế giới. Hãy mở mắt cho to, hãy nhìn ra lý do vì sao kẻ thù của kiếp sống bạn đang tin tưởng, của cuộc đời bạn đang sống, và của tôn giáo bạn đang tôn thờ, lại giết chết tôi. Hãy tìm ra lý do vì sao một ngày kia chúng sẽ làm điều đó với bạn. Lần lượt, tất cả những gì tiên đoán bởi nhà truyền giáo đại tài Nusret Hoja của miền Erzurum, người tôi chảy nước mắt khi nghe nói chuyện, đều trở thành sự thật. Hãy cho tôi nói thêm giả như cảnh huống chúng ta đang lâm vào đó được miêu tả trong một quyển sách thì ngay cả người tế họa tài ba nhất cũng chẳng bao giờ hy vọng có thể minh họa nổi. Với quyển kinh Koran – đó là ý Trời nếu tôi bị hiểu lầm – một quyển sách như vậy hàm chứa sức mạnh vô song chỉ vì không ai có khả năng miêu tả được nó. Tôi không chắc bạn thấu triệt được điều này.

   
Hãy nghe tôi nói đây. Hồi mới ra ràng, tôi cũng ôm ấp nỗi sợ hãi và vì thế tôi giả lờ như không biết đến sự thật cơ bản và những tiếng nói vọng về từ cõi xa xăm. Tôi còn đem mấy chuyện đó ra bông đùa. Nhưng cuối cùng tôi bỏ xác dưới đáy giếng thảm hại này! Coi chừng, có ngày bạn cũng bị như vậy đấy. Giờ đây, tôi chẳng biết làm gì hơn ngoài hy vọng xác thân tôi sẽ tan rữa thật kỹ và bốc mùi hôi thối để người ta tìm ra tôi. Tôi chỉ còn biết hy vọng như vậy thôi – và tưởng tượng cảnh tên sát nhân bị tra tấn như thế nào sau khi có người lương hảo nào đó tóm được gã.

 

Orhan Pamuk

Trịnh Y Thư dịch

 

(Trích đoạn tiểu thuyết My Name is Red, NXB Alfred A. Knopf, 2001.)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong buổi họp chuẩn bị cho ngày liên hoan Tết năm ấy, cô giáo trẻ sung sức là tôi, cao hứng giao cho nhóm lớp trưởng lớp phó lo phần trang trí, mua bánh kẹo, nước uống, còn tôi sẽ nấu một nồi chè bà ba và một hũ đậu phộng rang...
Kể từ năm 1558, con ông Nguyễn Kim là chúa Nguyễn Hoàng vào cai trị Thuận Hóa, gọi là Đàng Trong. Đàng Ngoài là ngoài Bắc vẫn thuộc quyền của chúa Trịnh. Họ chia đôi đất nước, lấy sông Gianh làm giới tuyến. Rồi Trịnh Nguyễn đánh nhau suốt 200 năm vẫn không phân thắng bại, con sông Gianh oan nghiệt là đề tài cho bao nhiêu đau thương, bao nhiêu than vãn...
Bà vợ của Martsa đã ra khỏi phòng với thằng bé, còn lại tôi đối mặt với Martsa, không khí trong phòng như cô đặc lại. Toàn bộ sự chú ý của tôi tập trung vào bàn tay phải, tôi nắm chặt cây dao găm. Tôi xua hết ý nghĩ trong tâm trí, chỉ còn trong đầu một ý kiến: giết Martsa để trả thù cho chàng Khampa và cha anh ta...
Đã gần đến Tết. Trời vẫn rét căm căm nhưng có lẽ mùa đông năm nay Seattle không có tuyết. Nhiều năm giờ này băng giá đã phủ kín các cành cây khẳng khiu trụi lá. Toàn cảnh như một cánh rừng bằng pha lê lóng lánh, trông đẹp như trong cảnh thần tiên, nhưng bước ra ngoài trên mặt đất giá băng lại rất nguy hiểm. Trượt té gẫy xương là chuyện thường...
Mấy ngày nay John cứ như một cái xác vô hồn, vẫn ăn uống, vẫn đi làm như mọi người nhưng John chỉ làm theo quán tính; toàn bộ mọi hoạt động và nói năng cứ như thể lập trình sẵn trong người máy chứ không hề có mộtc cảm xúc gì về việc mình làm. Đâu phải chỉ tuần này, đã lâu rồi, cái tình trạng này trong John tiếp diễn khi thì lên cao lúc xuống thấp. John thấy đời mình vô vị và vô nghĩa quá, chẳng biết sống để làm gì...
Không có đồng hồ đeo tay nên tôi chẳng biết Oanh đã vào chợ được bao lâu rồi. Con nhỏ định để tôi chết đứng ở đây. Trời đã trưa, khu chợ vắng dần. Ôm cặp, áo dài trắng đứng trước chợ giờ nầy, chướng ơi là chướng. Tôi cúi mặt, không dám nhìn ai vừa rủa thầm con nhỏ...
Có lời bái hát xưa nào đó mà tôi còn nhớ loáng thoáng trong đầu, “ngoài kia tuyết rơi đầy, sao em không đến bên tôi chiều nay…” chỉ nhớ mỗi câu ấy thôi nên ngân nga cho đỡ buồn khi mỏi mắt nhìn ra cửa sổ… ngoài kia tuyết rơi đầy. Dù sao cũng đỡ nản hơn nhìn vào chỗ làm là những hàng bàn làm việc dài im lặng, những hàng ghế ngồi có bánh xe xếp ngay ngắn; tiếng nói cười của đồng nghiệp hoà quyện vào âm thanh phát ra từ máy móc đã lui về quá khứ như một triều đại huy hoàng đã lụi tàn. Mọi thứ chưa đóng bụi thời gian đã thành phế tích của nền kinh tế đã chết trước cả chính quyền điều hành nó là thực tế nước Mỹ.
Tôi lái xe về nhà, trong lòng nặng trĩu nỗi buồn, thương cho Vi và giận chồng của Vi quá, tôi đâm xe thẳng vào garage và xồng xộc đi vào nhà, chồng tôi có lẽ vẫn đang lúi húi trong bếp nên không thấy tôi. Thay quần áo, nằm lăn trên giường, tôi nghĩ đến những lời Thu nói, nếu như tôi lấy phải một người chồng như của Vi?
Đêm đầu tiên về Saigon vì trái giờ nên khoảng 3 giờ sáng tôi đã thức giấc. Háo hức muốn tìm hiểu cuộc sống ban đêm ở Sài Gòn hoa lệ. Tôi trang bị nhẹ với máy ảnh đi lang thang một mình trên đường phố vắng. Ban đầu hơi ái ngại, tôi chỉ định rảo bộ quanh khách sạn ở Q1 cho an toàn. Ra ngoài khách sạn khoảng trăm thước, tôi thấy mấy chị đạp xe chở hàng có lẽ để bán lẻ ở đâu đó trong thành phố...
Trong tận thâm tâm tôi, thầy là một vì sao sáng, một hiền nhân vô cùng tôn kính giữa nhân gian này. Tôi chưa từng diện kiến hay bái sư nhưng toàn tâm ý của tôi thì thầy là thầy tôi từ quá khứ xa xưa chứ chẳng phải chỉ mỗi kiếp này...
Nằm trên giường tôi vươn vai duỗi chân thật thoải mái làm sao ấy, nhìn lên đồng hồ trên bàn đã 9 giờ sáng, bên ngoài trời Montreal tuyết nhè nhẹ bay trắng xóa thật đẹp. Hôm nay thứ hai đầu tuần, mọi người hàng xóm xung quanh đi làm hết, cả khu nhà yên ắng đến lạ thường, tôi mỉm cười thỏa mãn “mình về hưu rồi mà, phải tự sướng chứ!”
Sau dịp lễ Noel là không khí tháng chạp lấp ló đầu ngõ rồi! Thời tiết mùa đông lạnh lẽo đã dần nhường chỗ cho gió xuân về mơ màng trong sương sớm. Khoảng mùng 5 tháng chạp là mọi người đi tảo mộ đông vui. Đươc gặp bà con, họ hàng nội ngoại chào nhau tíu tít sau một năm tất bật là thấy tết đã sắp sửa cận kề. Tết không chỉ là niềm trông đợi của trẻ thơ mà còn là niềm vui của người lớn. Xưa chừ người ta thường nói vui như tết mà!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.