Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Ăn để mà sống

19/07/202217:45:00(Xem: 2636)

Phiếm

pho

 

Khi mùa dịch Covid ập đến, với một số người Việt tại Canada (tôi đoán chừng) là không có hiện tượng chạy vào Costco hay các chợ khác mua nhiều gạo mắm hay thức ăn tích trữ, ngoại trừ những người nhẹ dạ, lo xa. Bởi vì khí hậu Canada tuy có đầy đủ bốn mùa, nhưng trong đó có hai mùa giá băng, mấy tháng lạnh lẽo kéo dài, nên gia đình tôi, cũng giống như nhiều gia đình Việt khác, đều có tủ đông lạnh (freezer) loại nhỏ để dưới basement, dành cho việc chứa thêm các loại thịt thà, cá mắm, phòng hờ cho mùa đông lỡ có bão tuyết hoặc đường trơn trợt không thể đi chợ thường xuyên. Do vậy, dịch đến hay dịch đi, tủ thức ăn dự trữ lúc nào cũng đầy ắp!

 

Và rồi chúng ta đã bắt đầu chung sống với dịch. Kể từ lúc dịch ở đỉnh cao cho đến nay, khi lệnh cách ly đã được nới lỏng, chuyện chợ búa của nhà tôi cũng vẫn duy trì phương châm “đơn sơ, nhanh, gọn”:  mua vịt quay heo quay ăn với dưa leo bánh mì, xen kẽ mỗi tuần đi chợ Việt hoặc chợ Canada gần nhà. Vào đó, tôi quơ thiệt lẹ vài loại thịt bò gà heo, lấy vài mớ rau và các thứ trái cây (cam quít, chuối, táo…) Thế là đủ sống!

 

Hôm nọ chồng tôi muốn ăn phở bò. “Chuyện nhỏ!” Tôi lục tủ đông lạnh có đủ xương bò, đuôi bò, nạm bò, bò viên. Tôi cũng kịp mua đủ bánh phở tươi, rau quế, ngò gai, giá, chanh, củ hành, gừng… nói chung là đầy đủ cho một nồi phở. Ui cha, nồi nước lèo thơm ngất ngây, lan toả khắp căn nhà từ trên lầu xuống dưới phòng khách, bay ra cả vườn sau nơi chồng tôi đang cắt cỏ. Xong việc vườn tược, chồng tôi đi tắm, tôi hoàn tất những giai đoạn cuối cùng của nồi phở và chuẩn bị dọn ra cho cả nhà thưởng thức. Mọi thứ đã bày biện sẵn sàng ngoài bàn, tôi mới tá hoả tam tinh khi lục mãi trong tủ lạnh chẳng thấy mấy chai tương đen tương đỏ ở đâu. Vậy là nhà đã hết tương ăn phở mà tôi không biết. Mà cái món phở chúng tôi đã ăn theo thói quen bao nhiêu năm nay là phải có tương, giờ biết làm sao?

 

Tôi bỗng nhớ lại lần ra Hà Nội chơi năm 1986 (trước khi đi vượt biên), buổi sáng ra chợ Đồng Xuân, ngay Cửa Nam, vào quán phở, gọi hai bát phở chung với cô bạn. Họ đem ra đúng… hai bát phở. Tôi nhìn bát phở “solo” mà quá đỗi ngạc nhiên, bèn đổi giọng Bắc Kỳ hỏi chủ quán:

 

– Chị ơi, em bảo này, cho em tí rau giá, được không ạ?

 

Chị chủ quán khựng lại, nhận ra tôi là gái Sài Gòn giả giọng Hà Nội, bèn lên giọng chanh chua chát:

 

– Đây là Phở Bắc nhé, chẳng rau giá gì sất!

 

Có chút ngơ ngác cộng với bất ngờ, nhưng tôi vẫn vớt vát:

 

– Thế quán nhà mình không có tương đen tương đỏ hở bác?

 

Chị chủ lại nhìn tôi, lần này thì trợn mắt, sẵng giọng the thé:

– Đây là Phở Bắc nhá! Đây là Phở “Hà Lội” nhá! Muốn tương thì về Lam (Nam) mà ăn! Rách việc!!!

 

Chả nhớ bát phở hôm ấy có ngon không, chỉ nhớ cảm giác thiếu thiếu sao đó! Nhưng nhớ nhất vẫn là nỗi lòng bực mình, khó chịu vì bị đối xử như gáo nước lạnh nơi thủ đô nghìn năm văn hiến.

 

Về Sài Gòn, và sau này qua Canada, hay những khi qua Mỹ chơi, tôi vẫn tiếp tục được ăn phở phải có tương. Riêng bà chị Cả của tôi ở Arlington, Texas thì xưa nay vẫn ăn theo kiểu Bắc (không tương). Chị ấy bảo, nồi phở đang thơm, bát phở đang nồng nàn, mày cho tương vào là hỏng hết! Nhưng biết nói sao với một thói quen đã bao nhiêu năm, nên tôi vẫn ngoan cố ăn phở có tương, và gân cổ cãi chầy cãi cối:

 

– Ối, phở không tương thì còn gì là… phở?

 

Thế đấy, mới biết khẩu vị ăn uống của mỗi người là “chín người mười một ý”. Kẻ thích tương người thì bảo làm hư phở, người thích giá sống giòn rụm kẻ lại ưng giá trụng, người thích chín nạm gầu kẻ lại mê tái sống bò viên, chưa hẳn đã giống nhau, và cũng không bao giờ có một “chân lý” bất di bất dịch cho bất cứ một món ăn nào!

 

Trở lại nồi phở mùa dịch của nhà tôi, dù biết thiếu tương là mất ngon nhưng dĩ nhiên, tôi không muốn chạy xe gần nửa tiếng ra chợ phố Việt, rồi có khi phải xếp hàng thêm nửa tiếng nữa (vì mùa dịch nên số người vào chợ bị giới hạn) để chỉ mua hai chai tương! Tôi nghĩ, bà chị Cả tôi và nhiều người khác vẫn ăn theo kiểu Bắc không tương thì đã sao. Tôi cũng nhớ lại lần ăn phở Bắc bất đắc dĩ năm xưa tại chợ Đồng Xuân, tôi vẫn ăn hết sạch cả bát phở, có chết “thằng Tây” nào đâu nà!? Do vậy, tôi quyết định sẽ thử ăn phở kiểu Bắc lần này nữa xem sao, cái khó là thuyết phục chồng, con kìa!

 

Tôi liền mở đầu, dịu dàng:

 

– Hôm nay nhà mình hết tương, nên chúng ta chịu khó ăn phở không tương theo đúng kiểu… Bắc Kỳ nhé (chồng tôi người Nam, gốc Mỹ Tho).

 

Chồng tôi nhăn mặt, lặp lại y chang câu nói tôi từng nói với bà chị:

 

– Trời đất, phở không tương thì còn gì là… phở?

 

Đứa con gái cũng hùa theo ba nó:

 

– Không có tương làm sao con chấm ăn bò viên?

 

Tôi phải dịu giọng, ngọt ngào:

 

– Mẹ xin lỗi vì quên mua tương. Nhưng bây giờ mà chạy ra chợ thì chắc đến… khuya mới được ăn phở! Thôi cả nhà mình chịu khó ăn bữa nay thôi, rồi ngày mai ăn tiếp sẽ có đầy đủ tương đen tương đỏ.

Thế là cả nhà ngồi ăn phở không tương. Quả thật, tôi đã nếm được một mùi vị rất tuyệt vời của nước lèo, thơm béo mùi thịt và xương bò, thanh thanh vị của chanh, dẻo dai miếng bánh phở. Thậm chí tôi còn thấy tô phở nhìn hấp dẫn hơn, đẹp hơn như một bức tranh đa màu sắc: màu vàng nâu trong veo lấp lánh mỡ của nước lèo, màu trắng ngần của bánh phở tươi, điểm xuyết xanh rờn của hành ngò xắt nhuyễn, xen lẫn với màu tiêu đen và những lát củ hành bào, cùng những lát ướt tươi đỏ rực, bên cạnh dĩa rau giá mát rượi. Chồng tôi cũng gật gù, thú nhận rằng, không có tương cũng… chả sao cả, không đến nỗi… tận thế, dù dịch Tàu đang hoành hành! Tuy vậy, ngày hôm sau ăn phở “tập hai” thì chồng, con tôi vẫn lại hớn hở nêm tương như thói quen cũ, còn tôi thì đã thực sự thích kiểu phở Bắc (gái Bắc có khác!) nhưng có chút… lai Nam Kỳ khi ăn kèm thêm rau giá, (có ai cấm đâu!)

 

Chẳng ai mong chờ đại dịch, nhưng cũng “nhờ” nó, mà chúng ta ngộ ra nhiều điều đơn giản và thấm thía trong cuộc sống mà xưa nay không chú ý. Mọi người đã nói đến chuyện đời phù du, hãy yêu thương và tha thứ cho nhau, hãy tận hưởng những niềm vui nho nhỏ thường ngày dù vẫn còn bóng tối Covid bủa vây, hãy trân trọng hạnh phúc hiện tại với những người thân yêu xung quanh.

 

Còn tôi, thì nói chuyện… ăn uống! Vâng, hãy bớt đòi hỏi khắt khe, trông chờ món ăn phải đúng chuẩn, gia vị này gia vị kia cho vừa khẩu vị hoặc thói quen lâu năm (cuộc đời này vốn dĩ đã không hoàn hảo, có phải?)

 

Cho nên, nhân dịp “sự cố Phở Bắc” này, tôi cũng đã cảnh báo chồng con chuẩn bị tinh thần “có sao ăn dzậy người ơi” và đón nhận những món ăn “không hoàn hảo” trong tương lai (dù còn dịch hay hết dịch) do tôi đảm trách: Canh chua không ngò om, cà ry thiếu nước dừa, cơm tấm gạo dài không mỡ hành, bún bò Huế không mắm ruốc, bún riêu thiếu gạch cua… Và còn nhiều nữa.

 

Hãy đợi đấy!!!

 

Kim Loan

(Edmonton, 20.7.2020)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam 2)Nhớ về cuộc di cư 1954. 3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75 4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose. Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris. Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.