Hôm nay,  

Huế Quảng Sương Sương

17/02/202211:13:00(Xem: 2046)

Tùy bút tưởng nhớ nhà thơ Đoàn Vị Thượng

 

doanvit
Nhà thơ Đoàn Vị Thượng  (1959-2021) qua nét vẽ của nhạc sĩ Phạm Đăng Khương.


Khoảng 10 năm trước, nhờ chị bạn thư đi, tin lại, tôi “tương ngộ” nhà thơ Đoàn Vị Thượng, cũng là “tái ngộ” anh Trần Quang Đoàn, một người “rất quen” của quãng đời như thơ, như mộng cách đây hơn 4 thập niên “ở một nơi ai cũng quen nhau: Café Uyên”.

 

Gặp lại anh Đoàn, tôi vui quá chừng. Có lẽ, ai cũng vậy, nhắc chuyện ngày xưa, tuổi có năm mươi, sáu mươi lòng vẫn xôn xao như thể mười lăm, mười sáu. Sau bao nhiêu năm, vật đổi, sao dời. Chị bạn nói, anh Trần Quang Đoàn giờ đây là nhà thơ Đoàn Vị Thượng, ngồi ở “chiếu trên”, với những tên tuổi dành cho các cô cậu học trò “Mực Tím, Áo Trắng...”. Bởi vậy, ban đầu, tôi rụt rè, hỏi dè chừng đôi câu, sợ quấy rầy “người cao”. Nhưng khi nghe giọng kể hào hứng của anh, (theo tưởng tượng của tôi, chứ anh chỉ “nói” trong email mà thôi) tôi dạn dĩ hơn, liên tục vẽ thêm nhiều dấu chấm hỏi gởi anh Đoàn. Rõ là, được voi, đòi tiên. Thấy thư của doanvithuong@... đến, tôi mở ngay, đọc say sưa, rồi thảo thêm nhiều câu hỏi khác. Chuỗi điện thư của anh Đoàn như những thước phim sống động, về ngày tháng vào thập niên 70 ở Quảng Ngãi với những cô nàng Thanh Tâm, Cẩm Thành, Thương Thương... với những anh chàng Trầm Thụy Du, Nguyễn Minh Phúc, Mai Sơn, Lý Văn Hiền, Nguyễn Hải, Nguyễn Xuân Phước, Nguyễn Xuân Đức, Bùi Tuấn Kiệt, Nguyễn Tấn Cư, Trần Hữu Hoài Bão... Giữa những câu chuyện về “người lớn”, về các anh, các chị, sắp sửa là cậu tú, cô tú, sinh viên, anh Đoàn chợt reo lên, nhắc đến “người nhỏ”: “À, anh nhớ thêm một chi tiết, Café Uyên có cái xích đu, xeo xéo quầy tính tiền. Anh nhớ, từng ngồi đong đưa trên đó, thơ mộng nhâm nhi cà phê và... quan sát Thúy”. Phút chốc, tôi cảm thấy mình như con bé 15 tuổi năm nao, bẽn lẽn, e thẹn, vì biết có người đang nhìn mình. Mơ màng, tôi nghe nhà thơ Đoàn Vị Thượng nói giùm tâm trạng của tôi:

 

Vấp mùi hương cũ ngẩn ngơ

Mấy mươi năm đến bây giờ chưa tan

(Hoài Quê)

 

Qua lời kể của anh Đoàn, đúng hơn, của nhà thơ Đoàn Vị Thượng, tôi được biết thêm những câu chuyện nho nhỏ, đáng yêu của ngày cũ. Anh vẫn gặp các nhà thơ, nhà văn Tuổi Ngọc như Hoàng Ngọc Tuấn, Đinh Tiến Luyện, Mường Mán... Anh kể, sau 1975, Nguyễn Thanh Trịnh đổi thành Đoàn Thạch Biền. Bài thơ anh ghi “tặng ĐTB” mới dễ thương, mới “tuổi ngọc” làm sao.

 

Ví dụ anh ngồi lâu được không

Ngồi hoài, như tảng đá rêu phong

Chớ tưởng tay em là yếu đuối

Chạm thử anh lăn được mấy vòng

(Ví Dụ Ta Yêu Nhau)

 

Bây giờ gặp lại anh Đoàn, tôi mới biết gia đình anh và gia đình chúng tôi có hành trình “con đường cái quan” tương tự. Chúng tôi nhận nhau là đồng hương “Huế Quảng sương sương”. Cả hai chúng tôi cùng thương yêu, trân quý giọng Huế của Mạ. “Giọng Huế của Mạ tôi” xa Huế, vào Quảng Ngãi, Sài Gòn rồi sang Đức. “Giọng Huế của Mạ anh Đoàn” thì: 

 

Sông Hương chảy xuôi dòng, Mạ có thời chảy ngược

Vào miền Nam trắc trở đến giờ

(Giọng Huế của Mạ)

 

Chuyện trò rôm rả trong điện thư với anh Đoàn, tôi hỏi thăm về một “cố nhân”. Thế là anh Đoàn kể vèo vèo câu chuyện hình- như- là- tình- yêu, với lá thư tình dài 48 trang gởi cho con bé học trò lớp Chín. Nhắc kỷ niệm nhiệm mầu, lòng tôi bổi hổi, bồi hồi. Anh Đoàn cũng không biết “cố nhân” trôi giạt về đâu. Nhưng anh còn nhớ rõ ngọn ngành của lá thư ngày xưa. Càng nghe, tôi càng cảm động, xao xuyến hơn. Thỉnh thoảng, anh Đoàn chậm thư, vì anh phải chuẩn bị bài vở cho tòa soạn. Nghĩ, ai cũng có nhiều áp lực của cuộc sống, tôi không dám “quấy nhiễu” thêm. Về sau, thư từ thưa thớt dần. Bẵng đi mấy năm, tôi không liên lạc với anh Đoàn.

 

Năm kia, chị bạn báo tin anh Đoàn bệnh và cho tôi số điện thoại của anh. Tôi có dịp trao đổi đôi chữ với anh qua viber. Rằm tháng Ba năm ngoái, soạn lại những thư điện tử của anh Đoàn, lòng lưu luyến những tiếng xưa êm đềm, tôi viết cổ tích “Đếm Sao”. Ngày xưa, ngày xửa, có một “cậu bé thầm lặng” trao cho cô bé mắt to một lá thư tình dài vô tận. Nhiều năm sau, cô bé mới biết rằng, tác giả của lá thư là “cậu bé thi sĩ”, bạn của “cậu bé thầm lặng”... Tôi phân trần qua viber với anh Đoàn rằng, tôi không nhớ rõ nội dung của “quyển” thư tình. Bởi thế, tôi thêm màu sắc, tô vẽ chút chút. Nhưng các chi tiết khác, tôi “thành khẩn khai báo” dựa theo trí nhớ của mình và thông tin của anh. Mong tác giả “quyển” thư không rầy rà. Anh Đoàn bật cười (tôi nghĩ vậy), nhá đèn xanh trong viber: “Anh vui chứ!”. Tôi nhờ nhà xuất bản gởi thẳng đến anh Đoàn tập truyện Long Lanh Màu Trời. Vì thế, tôi không thể ghi lời đề tặng trong sách. Tôi chợt có sáng kiến, nhờ anh Đoàn viết giúp lời tặng của tôi. Như vậy cuốn sách đúng nghĩa là sách tặng và tôi được nhìn thấy nét chữ viết tay của anh Đoàn.

tquangdoai
Thủ bút của Trần Quang Đoàn.

 


Ít lâu sau, tôi nhận điện thư của anh Từ Nguyên Thạch. Anh Từ Nguyên Thạch kể, “hai anh em đọc Long Lanh Màu Trời. Nhắc chuyện xưa, thấy sống lại một thời thanh xuân tươi vui. Trong những ngày bệnh, không gì vui hơn có những món quà của người bạn thuở xưa cách nửa vòng trái đất vẫn nhớ về”. Những emails báo tin của anh Từ Nguyên Thạch tuy ngắn gọn, tôi vẫn cảm nhận được tình thương yêu chan hòa, sự chăm sóc tận tụy của người anh dành cho người em. Nhờ anh Từ Nguyên Thạch sắp xếp thì giờ, tôi có được hai lần nói chuyện qua điện thoại với anh Đoàn. Cuộc điện đàm không dài, nhưng chúng tôi có đôi phút, cùng vui với những hồi tưởng về ngày tháng cũ. Tôi lóng ngóng thăm hỏi. Anh Từ Nguyên Thạch cho biết sức khỏe của anh Đoàn không khả quan hơn, cầu mong anh Đoàn cùng gia đình đón tết Nguyên Đán năm Tân Sửu. Hôm mồng Năm tết, chị bạn thảng thốt báo tin: “Đoàn Vị Thượng đã bỏ chúng ta đi”. 

 

Như anh Đoàn nhắn nhủ trong bài thơ “Tôi là ai”: “Em có yêu đời này, xin yêu một cái tên: ĐOÀN VỊ THƯỢNG.” Biết bao người quý mến nhà thơ, nhà văn, nhà giáo, nhà báo Đoàn Vị Thượng. Riêng tôi, hơn thế nữa, rất thương, rất tiếc anh Trần Quang Đoàn, anh học trò Huế Quảng sương sương thuở mười lăm, mười bảy, đã gò lưng viết giúp cho người bạn lá thư tình dài nhất thế giới, để bạn gởi cho con nhỏ mắt to. Anh Đoàn ơi, lá thư ấy, dẫu chỉ còn là hình ảnh mờ ảo trong ký ức của Thúy, nhưng lúc nhớ ngày xưa, tơ lòng vẫn vương vương đó anh Đoàn à.

 

Nơi phương xa, Thúy xin đốt nén hương lòng, hiệp lời nguyện cầu cùng gia đình anh, nguyện cầu anh Trần Quang Đoàn thanh thản chốn yên bình.

 

-- Hoàng Quân

(Mồng Tám, tháng Giêng, Tân Sửu, 19.02.2021)

 

Nhà thơ Đoàn Vị Thượng (1959-2021) tên thật là Trần Quang Đoàn, sinh tại Huế, lớn lên ở Quảng Ngãi.


Các tác phẩm đã xuất bản:

 

-- Ngôi trường, hoa phượng và tôi (thơ, 1987)

-- Thơ Đoàn Vị Thượng (1988)

-- Chuyện tình chim hót (truyện dài, 1989)

-- Môi thơm (truyện dài, 1990)

-- Tóc em còn thả mùa đi học (truyện dài, 1991)

-- Thơ Đoàn Vị Thượng (NXB Hội Nhà văn, 2020)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.
Nhận được tin buồn nhà thơ Phan Xuân Sinh sau một cơn bạo bệnh, nhập viện vì bệnh tim mạch, hôn mê sau 10 ngày vô phương cứu chữa đã qua đời tại Texas ngày 28/2/2024. Thọ 76 tuổi...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
Thông thường khi nghe hai chữ “cô đơn” chúng ta liên tưởng đến trạng thái tinh thần yếm thế, tâm tư buồn bã, ngày tháng chán chường, thậm chí, cuộc đời trống rỗng. Có lẽ, vì ý nghĩa từ điển của từ vựng này; có lẽ, vì ảnh hưởng văn chương nghệ thuật; có lẽ vì chúng ta đã từ lâu tin như thế, mà không bao giờ đặt một nghi vấn nào. Đây là định nghĩa của “cô đơn” qua Bách thư toàn khoa Wikipedia: “Cô đơn là một trạng thái cảm xúc phức tạp và thường gây khó chịu, đáp ứng lại với sự cách ly xã hội. Cô đơn thường bao gồm cảm giác lo lắng về sự thiếu kết hợp hay thiếu giao tiếp với những cá nhân khác, cả ở hiện tại cũng như trong tương lai. Như vậy, người ta có thể cảm thấy cô đơn ngay cả khi xung quanh có nhiều người. Nguyên nhân của sự cô đơn rất đa dạng, bao gồm các vấn đề về xã hội, tâm thần, tình cảm và các yếu tố thể chất.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.