331 năm trước Công nguyên, ngay sau chiến thắng Gaugamèles khi tiến vào thành Babylone, đại đế Alexandre nói trước hàng quân: “Chiến thắng này cho vinh quang và tự do”. Võ Nguyên Giáp khó tuyên ngôn như vậy trước lịch sử, vì Điện Biên Phủ không đem đến tự do cho dân Việt mà ngược lại, áp đặt một chế độ tàn khốc. Tự do nào sau đấu tố phi nhân, sau Cải cách ruộng đất, nông dân chỉ có thể cày thuê cho hợp tác xã? Và tự do nào khi dân Bắc di cư rồi dân Nam chạy theo lính Cộng hòa mỗi một khi “giải phóng” vùng “tạm chiếm”?
Võ Nguyên Giáp hẳn nhiên muốn giữ lại vế đầu của Alexandre đại đế: “Điện Biên Phủ là một chiến thắng vinh quang.” Tất nhiên và không ai chối cãi, vì lần đầu tiên da vàng chiến thắng da trắng và lần đầu tiên một thuộc địa thắng đế quốc. Nhưng phía sau tấm huân chương là vinh quang cay nghiệt: Đẩy cả một dân tộc vào chiến tranh, mục đích của Hồ Chí Minh là giành độc lập, thống nhất 3 kỳ, nhưng Hiệp định Genève chỉ cho Hồ Chí Minh Bắc kỳ, Nghệ Tĩnh và Quảng Bình, ít hơn so với Hiệp ước Sơ bộ 1946 cho tự trị 2 miền Trung-Bắc, đến tận Phan Thiết. Đó là về đất đai, còn mục tiêu tối thượng – giành Độc Lập – tức giành quyền tự quyết quốc gia, Hồ Chính Minh đã đánh mất ngay tức khắc vào tay Bắc Kinh ngay khi tiếng súng vừa ngưng, còn nồng mùi tử khí.
Những ai chưa muốn tin, chỉ cần đọc lại Trận Đánh 30 Năm, tập 2, Nxb QĐND 1985, Ban Ký sự Lịch sử Tổng cục Chính trị do đại tướng Hoàng Văn Thái và trung tướng Trần Độ chỉ đạo, trang 461 và 462: “Đoàn Trung quốc đến Giơ-ne-vơ gồm 200 người, đông như một đạo quân. Họ muốn chứng minh họ là một nước lớn, mọi vấn đề có sự tham gia của Trung quốc mới có thể giải quyết thuận lợi. Lập trường của những người lãnh đạo Trung quốc gần giống của Pháp, nghĩa là một giải pháp theo kiểu Triều Tiên cho cuộc chiến tranh Đông Dương, tức là đình chiến về quân sự mà không có giải pháp đầy đủ về chính trị. Trung quốc quan tâm hàng đầu đến việc tạo ra một khu đệm ở sườn phía Nam, cách ly với Mỹ bằng những nước không có căn cứ quân sự của Mỹ, tránh được sự đụng đầu trực tiếp với Mỹ, đồng thời muốn hạn chế thắng lợi của Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương, hòng làm suy yếu và dần dần thôn tính ba nước đó, dùng làm bàn đạp bành trướng xuống Đông Nam Á. […] Trước tình hình diễn biến cụ thể của hội nghị, nhất là vì Trung quốc đã thỏa hiệp với Pháp, xuất phát từ truyền thống yêu chuộng hòa bình, tôn trọng nguyện vọng của các nước XHCN và nhân dân thế giới muốn có hòa bình, chúng ta đã chấp thuận giải pháp cuối cùng của hội nghị.”
“Giải pháp cuối cùng” là vĩ tuyến 17. Một vĩ tuyến làm Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh cảm giác “thất thu”, chính vì Việt Minh đang chiếm Tây nguyên, Đồng Tháp, Bình Trị Thiên cùng 3/4 diện tích Bắc phần, đánh tiếp quân Liên hiệp Pháp không thể thắng. 9 năm chiến tranh đã chứng minh sức ung thối các vùng đất quốc gia của Việt Minh không thể đảo hồi. Đánh tiếp, toàn bộ đất Việt sẽ rơi vào tay Việt Minh, nhưng Genève ngăn Hồ Chí Minh vượt qua Đồng Hới và cho Quân đội Quốc gia thời gian hoàn bị.
Võ Nguyên Giáp kể lại khi Chu Ân Lai thông báo chia đôi ở vĩ tuyến 17: “Bác và chúng tôi đều ngỡ ngàng. Phải chăm chú tìm trên bản đồ mới thấy dòng sông nhỏ Bến Hải ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Bác nói: với so sánh lực lượng trên thực tế chiến trường hiện nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 (Phú Yên) là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải giành được vĩ tuyến 16 (Đà Nẳng).” (Võ Nguyên Giáp, Điểm hẹn Lịch sử, trang 407, Nxb QĐND, 2001)
Quyết tâm của “Người” là vậy, nhưng vì sao cuối cùng Phạm Văn Đồng vẫn phải ký vào hiệp định? Vì đã đánh mất độc lập chính trị vào tay Mao. Trong lúc, trưởng đoàn Quốc gia Trần Văn Đỗ đã không ký để phản đối áp đặt thể chế Cộng sản lên miền Bắc, bất chấp áp lực từ phía Pháp. Thủ tướng Mendès France cay đắng: “Cộng sản gọi họ là bù nhìn của chúng ta, nhưng chúng ta không thể ra lệnh cho họ ký bất kỳ điều gì.”(Les communistes les appellent nos marionnettes, mais nous ne pouvons pas leur ordonner de signer quoi que ce soit.)
Trở lại với Trận Đánh 30 Năm, Ban Ký sự Lịch sử Tổng cục Chính trị chỉ có thể công khai “Trung quốc muốn hạn chế thắng lợi của Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương, hòng làm suy yếu và dần dần thôn tính ba nước đó, dùng làm bàn đạp bành trướng xuống Đông Nam Á…” trong bối cảnh chiến tranh biên giới 1979 vừa xảy ra và Hà Nội còn thù nghịch với Bắc Kinh. Sau đó Hoàng Văn Thái đột tử, còn Trần Độ bị khai trừ khỏi Đảng, một Trần Độ đã nhận ra: “Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp.” (Trần Độ, Nhật Ký Rồng Rắn, 2001)
Võ Nguyên Giáp nhận ra gì? Ở chủ nghĩa Mao, Mác, Lê-Nin? Qua Hồi ức, ông vẫn tin Điên Biên Phủ là “cây cột mốc bằng vàng”, là “những tiếng vang vang tự hào”, với một tấm lòng tri ân sắt son Trung quốc. Ông không nhìn thấy mặt trái của hào quang: Lệ thuộc vũ khí khiến trở thành chư hầu. Sẽ phải triều cống đất đai và biển cả để trả nợ. Chế độ sắt máu toàn trị mà ngay cả chính ông cũng sợ hãi về sau. Là những gì Điện Biên Phủ đem đến. Võ Nguyên Giáp không muốn nhìn vào thực tế: Dân Việt được gì với một giai cấp cung đình tha hóa tự cho mình quyền cai trị vĩnh viễn đất nước, vì đã chiến thắng Điên Biên Phủ? Các sắc tộc thiểu số sinh sống trên miền Cao, quanh thung lũng Mường Thanh, được gì sau “lẫy lừng Điện Biên”?
Mở bất kỳ trang báo quốc nội nào cũng dễ dàng tìm thấy “những cái chết trắng”, chuỗi “đám tang không đàn ông”, những án tử hình, những cửu vạn đánh hàng sang Trung quốc rồi buôn lậu ngược về bị bắt, tỷ lệ tội ác, tội phạm ma túy cao ngất ngưỡng ở các bản làng Mường Pôn, Mường Né, Mường Tè, Mường Giang, Mường Lèo, Mường Chà…
Tìm trên internet “tỉnh nghèo nhất Việt Nam”, hiện ra:
Điện Biên – Tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước
“Điện Biên là một tỉnh nằm ở vùng Tây Bắc, miền Bắc Việt Nam. Giáp với các tỉnh Lai Châu và Sơn La của Việt Nam, Vân Nam của Trung Quốc ở phía Bắc, Phongsaly của Lào ở phía Tây, các huyện Pak Xeng, Pak Ou thuộc tỉnh Luangprabang của Lào ở phía Tây Nam.
Điện Biên là tỉnh giàu tiềm năng du lịch, đặc biệt là lĩnh vực văn hoá – lịch sử. Nổi bật nhất là hệ thống di tích lịch sử chiến thắng Điện Biên Phủ gồm: Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ – Mường Phăng; Các cứ điểm Him Lam, Bản Kéo, Độc Lập; Các đồi A1, C1, D1, E1 và khu trung tâm tập đoàn cứ điểm của Pháp (Khu hầm Đờcát). Nhưng hiện nay tỉnh Điện Biên vẫn thuộc diện đặc biệt khó khăn. Với hơn 90% dân cư là nông dân, chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp. Với tỷ lệ nghèo 38,25%, cận nghèo 6,83%, Điện Biên đang là tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước.”
Sơn La – Một trong 3 tỉnh nghèo nhất Việt Nam
“Sơn La là tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, tỉnh có diện tích 14.125 km² chiếm 4,27% tổng diện tích Việt Nam, đứng thứ 3 trong số 63 tỉnh thành phố. Có hơn 92.000 hộ nghèo, nên Sơn La cũng được xem làm một trong 3 tỉnh nghèo nhất Việt Nam. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của UBND tỉnh Sơn La cho biết, Sơn La còn tới hơn 36.000 người thiếu đói. Sơn La hiện vẫn là một trong những tỉnh nghèo của cả nước. Toàn tỉnh có 11 huyện và 1 thành phố thì có tới 5 huyện nghèo thuộc chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững của Chính phủ (Chương trình 30a).”
Tiếp đến là Hà Nam – tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất đồng bằng sông Hồng; Quảng Bình – tỉnh nghèo nhất Bắc Trung bộ; Quảng Nam – tỉnh nghèo nhất duyên hải miền Trung…
- Từ khóa :
- Điện Biên Phủ Trần Vũ
Gửi ý kiến của bạn