Hôm nay,  

Bước mãi đến thiên thu

13/02/202220:29:00(Xem: 2375)

 Valentine's Day -- Truyện

 

longwalk



Hai người lớn lên cạnh nhà nhau, tại rìa thành phố, nơi tiếp giáp cánh đồng, khu rừng và vườn cây trái, trong tầm nhìn cái tháp chuông xinh xắn của ngôi trường cho người mù.

 

Bây giờ họ đã hai mươi tuổi và dễ thường đến gần năm trời họ không gặp mặt nhau. Giữa hai người bao giờ cũng là sự ấm áp vui tươi và thư thái, nhưng chưa bao giờ họ nói đến tình yêu.

 

Tên anh là Newt. Tên cô Catharine. Lúc xế trưa, Newt đến gõ cửa nhà Catharine.

 

Catharine ra mở cửa. Cô cầm trên tay cuốn tạp chí khổ lớn, màu sắc bóng láng, cô đang đọc. Cuốn tạp chí dành trọn số đăng bài và hình ảnh về cô dâu. “Newt!” Cô kêu lên, ngạc nhiên khi thấy anh.

“Em ra ngoài đi dạo được không?” Anh hỏi cô. Anh là người có tính hay thẹn, ngay cả với Catharine cũng thế. Anh che đậy tính thẹn của mình bằng cách nói trống không, như thể những điều thực sự liên quan đến anh đều nằm ngoài xa – như thể anh là một điệp viên tạm nghỉ chân trong một đặc vụ giữa những điểm đến xa xôi, đẹp đẽ nhưng hung hiểm. Xưa nay, đây vẫn là cách nói năng của Newt, ngay cả khi anh phải đương đầu với sự việc trong tuyệt vọng.

 

“Đi dạo à?” Catharine hỏi lại anh.

 

“Một chân trước, một chân sau,” anh trả lời cô, “giẵm lên lá cây, bước qua cầu...”

 

“Em không biết anh mới về.”

 

“Anh vừa về đến.”

 

“Vẫn còn trong quân đội à – em thấy rồi.”

 

“Còn bảy tháng nữa.” Anh bảo cô. Anh là binh Nhất trong binh chủng Pháo binh. Bộ quân phục trên người anh nhầu nhĩ. Đôi giày bụi bám đầy. Anh cần cạo râu. Anh đưa tay ra cầm lấy cuốn tạp chí. “Xem nào, cuốn sách đẹp nhỉ.”

 

Cô đưa cuốn báo cho anh. “Newt, em sắp lên xe hoa.” Cô bảo anh.

 

“Anh biết, mình ra đi dạo một chút đi.”

 

“Newt, em bận lắm,” cô bảo anh. “Tuần tới là đám cưới.”

“Nếu ra đi dạo, em sẽ tươi hồng. Em sẽ là một cô dâu màu hồng.” Anh lật lật cuốn báo. “Một cô dâu màu hồng như cô này… cô này… cô này.” Anh nói, tay chỉ vào những cô dâu màu hồng.

 

Khuôn mặt Catharine bỗng ửng hồng, cô đang nghĩ đến những cô dâu màu hồng.

 

“Đấy là quà cưới của anh cho Henry Steward Chasens,” Newt bảo cô. “Đưa em đi dạo, anh sẽ tặng anh ta một cô dâu màu hồng.”

 

“Anh biết tên anh ấy?”

 

“Mẹ viết thư. Hôm đi Pittsburg thì phải?”

 

“Vâng,” cô bảo anh. “Anh sẽ thích anh ấy.”

 

“Có thể.”

 

“Newt, anh… anh đi dự đám cưới em được chứ?” Cô hỏi anh.

 

“Chắc là không được.”

 

“Anh hết hạn nghỉ phép rồi sao?”

 

“Nghỉ phép?” Anh nói, mắt vẫn không rời trang quảng cáo những đồ dùng bằng bạc trong cuốn tạp chí. “Anh đâu được nghỉ phép.”

 

“Ô hay!”

 

“Anh trốn trại về.”

 

“Ô, Newt! Thật thế không?” Cô kêu lên.

“Thật đấy,” anh nói, mắt vẫn nhìn vào cuốn tạp chí.

 

“Tại sao vậy, Newt?”

 

“Anh cần biết em thích loại đồ bạc nào.” Anh đọc tên những mẫu mã dao muỗng nĩa làm bằng bạc trong cuốn tạp chí. “Albemarle? Heather? Legend? Rambler Rose?” Anh ngước mặt lên, mỉm cười. “Anh định tặng vợ chồng em một cái thìa bạc.”

 

“Newt, Newt, anh nói thật đi.” Cô bảo anh.

 

“Anh muốn ra đi dạo.”

 

Cô đan hai tay vào nhau trong tâm trạng lo âu của cô em gái. “Newt, anh nói đùa với em về chuyện anh trốn trại, phải không?”

 

Newt giả giọng khe khẽ làm tiếng còi hụ xe cảnh sát, anh nhướng đôi lông mày.

 

“Ở đâu? Từ đâu ra?”

 

“Fort Bragg.”

 

“North Carolina?”

 

“Đúng đấy, gần Fayetteville, chỗ Scarlett O’Hara đi học.”

 

“Newt, anh về bằng cách nào?” Cô hỏi anh.

 

Anh đưa ngón tay cái ra ngoắc ngoắc, ngầm bảo đi quá giang xe về.

 

“Mất hai hôm.” Anh bảo cô.

 

“Mẹ anh biết anh về chưa?”

 

“Anh về không phải để thăm mẹ.”

 

“Chứ để thăm ai?”

 

“Em.”

 

“Tại sao là em?”

 

“Bởi vì anh yêu em. Bây giờ mình đi dạo được chưa? Một chân trước, một chân sau, giẵm lên lá cây, bước qua cầu...”

 

Bây giờ hai người đang đi dạo, bên trong khu rừng trải thảm lá nâu khô.

 

Catharine giận lắm, người cô run lên, nước mắt chỉ chực trào ra. “Newt! Anh thật là điên, điên quá sức mất thôi.” Cô bảo anh.

 

“Điên như thế nào?” Newt hỏi lại.

 

“Chỉ có điên mới đúng ngay vào lúc này bảo yêu em. Trước đây anh có nói như thế bao giờ.” Cô bỗng dừng bước.

 

“Đi nữa đi em.” Anh bảo cô.

 

“Không! Em không đi nữa. Lẽ ra em chẳng nên đi ra ngoài với anh như thế này.”

 

“Em đi rồi đấy.”

 

“Để kéo anh ra khỏi nhà chứ có ai vô tình bước vào nghe anh nói chuyện với em như thế trước ngày đám cưới một tuần thì…”

 

“Họ sẽ nghĩ gì?” Anh hỏi cô.

 

“Họ sẽ nghĩ anh là người điên.”

 

“Tại sao?”

 

Catharine hít vào một hơi thở sâu, đoạn cô đọc một bài diễn văn. “Hãy cứ nói là em vô cùng vinh dự với hành động điên khùng này của anh. Em không thể nào tin nổi anh thật sự trốn trại về đây, nhưng có thể anh làm thế thật. Em cũng không tin nổi anh thật sự yêu em, nhưng anh có thể yêu em thật. Nhưng…”

 

“Anh yêu em thật,” Newt bảo cô.

 

“Ừ, em vô cùng vinh dự,” Catharine bảo anh, “và em rất quý mến anh như người bạn. Newt, em quý anh lắm... nhưng trễ quá rồi.” Cô lùi lại một bước ra xa anh. “Thậm chí anh chưa bao giờ hôn em,” cô bảo anh, cô đưa hai tay lên như tự vệ. “Em không có ý nói bây giờ anh nên hôn em, nhưng mọi chuyện xảy ra bất ngờ quá và em hoàn toàn không biết phải ứng phó như thế nào.”

 

“Đi thêm đoạn nữa,” Anh bảo cô. “Cứ việc thong thả.”

 

Hai người lại tiếp tục đi.

 

“Anh chờ đợi phản ứng gì từ em?” Cô hỏi anh.

 

“Làm sao anh biết anh chờ đợi điều gì?” Anh trả lời cô. “Anh chưa làm như thế này bao giờ.”

 

“Anh nghĩ là em sẽ chạy lại ôm chầm lấy anh ư?”

 

“Có thể.”

 

“Rất tiếc em đã làm anh thất vọng.”

 

“Anh không thất vọng. Anh không mong chuyện đó. Đi dạo thế này là tốt đẹp lắm rồi.”

 

Catharine lại dừng bước. “Anh biết chuyện gì sẽ xảy ra kế tiếp không?” Cô nói.

 

“Không.”

 

“Chúng mình bắt tay nhau. Bắt tay xong chia tay như bạn. Đó là chuyện sẽ xảy ra kế tiếp.”

 

Newt gật đầu. “Được rồi.” Đoạn anh nói tiếp, “Thỉnh thoảng nhớ đến anh. Nhớ tình của anh cho em.”

 

Không tự chủ được nữa, Catharine bật lên khóc. Cô quay lưng lại Newt, hướng về phía cây rừng đan nhau chạy dài sâu hút đến vô tận.

 

“Thế này nghĩa là gì?” Newt hỏi cô.

 

“Tức chết được chứ còn gì nữa!” Catharine trả lời anh, hai tay cô nắm chặt. “Anh không có quyền gì… ”

 

“Anh sẽ phải tìm ra thôi,” anh bảo cô.

 

“Nếu em yêu anh thì em đã để lộ ra cho anh thấy từ trước đây rồi.”

 

“Thế à?”

 

“Chứ còn gì nữa,” cô bảo anh. Cô quay lại đối diện anh, nhìn lên anh, mặt cô đỏ gay. “Anh phải biết.”

 

“Cách nào anh biết?”

 

“Anh phải nhìn thấy. Đàn bà không khéo che giấu tình cảm của mình.”

 

Newt nhìn sát mặt cô. Cô bỗng hoảng vía bởi cô nhận ra điều cô vừa nói là sự thật, đàn bà khó có thể che giấu được tình yêu.

 

Giờ đây Newt nhìn thấy tình yêu.

 

Anh làm điều anh phải làm. Anh hôn cô.

 

“Anh thật là quá sức!” Cô bảo anh sau khi anh buông cô ra.

 

“Anh quá sức gì?”

 

“Anh không nên làm thế.”

 

“Em không thích à?”

 

“Anh muốn gì? Tình yêu say đắm, cuồng nhiệt chăng?”

 

“Anh bảo em rồi, anh không bao giờ biết chuyện gì xảy ra kế tiếp.”

 

“Mình chia tay.” Cô bảo anh.

 

Anh khẽ nhíu mày. “Được rồi.” Anh bảo cô.

 

Cô lại đọc bài diễn văn khác. “Rất tiếc chúng mình hôn nhau. Nó ngọt ngào lắm. Nên hôn nhau chứ, chúng mình thân thiết nhau quá mà. Newt, em sẽ luôn luôn nhớ đến anh. Thôi, chúc anh may mắn.”

 

“Em cũng thế.” Newt bảo cô.

 

“Newt, cám ơn anh.”

 

“Ba mươi ngày.”

 

“Gì cơ?”

 

“Ba mươi ngày bị nhốt,” anh bảo cô, “đó là cái giá anh phải trả cho một nụ hôn.”

 

“Em... em rất tiếc, nhưng em có bảo anh trốn trại bao giờ đâu.”

 

“Anh biết.”

 

“Nhưng anh cũng không xứng đáng nhận lãnh huy chương anh hùng cho việc làm ngu ngốc đó của anh.” Cô bảo anh.

 

“Làm anh hùng thì thích thật. Henry Steward Chasens có là anh hùng không?”

 

“Có thể lắm chứ, nếu anh ấy có cơ hội,” Catharine bảo anh. Cô ngượng ngùng nhận ra hai người lại tiếp tục cất bước. Cuộc chia tay bị bỏ quên.

 

“Em yêu anh ta thật không?” Newt hỏi cô.

 

“Chắc chắn em yêu anh ấy chứ.” Giọng nói cô quả quyết. “Nếu không yêu thì em đâu chịu lấy anh ấy.”

 

“Cái gì tốt đẹp nơi con người anh ta?” Newt lại hỏi.

 

“Em nói thật này!” Cô kêu lên, lại dừng bước. “Anh có biết anh đang tọc mạch lắm không? Có thật nhiều, nhiều, nhiều điều tốt đẹp về Henry! Vâng, và có lẽ cũng có thật nhiều, nhiều, nhiều điều xấu nữa. Nhưng nó chẳng liên quan gì đến anh. Em yêu Henry, và em chẳng cần phải cãi cọ với anh về đức hạnh của anh ấy làm gì.”

 

“Xin lỗi em.” Newt bảo cô.

 

“Em nói thật đấy!”

 

Newt lại hôn cô. Anh hôn cô lần nữa bởi cô muốn như thế.

 

Bây giờ hai người đang đứng trong một vườn cây rộng.

 

“Newt! Mình đi xa nhà quá rồi.” Catharine bảo anh.

 

“Một chân trước, một chân sau, giẵm lên lá cây, bước qua cầu…”

 

“Một bước, hai bước nối tiếp nhau, cứ thế đi mãi.” Cô bảo anh.

 

Tiếng chuông đổ vọng lại từ tháp chuông ngôi trường cho người mù gần đó.

 

“Trường học cho người mù.” Newt nói.

 

“Trường học cho người mù.” Catharine đáp lời. Cô lắc đầu trong nỗi kinh ngạc mê muội. “Em phải về nhà ngay.”

 

“Mình chào nhau,” Newt bảo cô.

 

“Hình như mỗi lần làm thế, em lại bị hôn.”

 

Newt ngồi xuống thảm cỏ mới cắt xén dưới gốc một cây táo.

 

“Ngồi xuống đây đi em,” anh bảo Catharine.

 

“Không.”

 

“Anh sẽ không chạm vào em đâu.” Anh bảo cô.

 

“Em không tin anh.”

 

Cô ngồi xuống dưới gốc cây táo khác cách xa chỗ anh sáu bảy thước. Hai mắt cô nhắm lại.

 

“Nhắm mắt mơ về Henry Steward Chasens đi.” Newt bảo cô.

 

“Gì cơ?” Cô hỏi lại anh.

 

“Mơ về người chồng tương lai tuyệt diệu đi.”

 

“Được rồi, anh không cần nhắc em.” Cô nhắm hai mắt chặt hơn, thoáng thấy hình ảnh người chồng tương lai của mình hiện ra.

 

Newt ngáp dài.

 

Có tiếng ong vo ve trên tàn cây, Catharine xuýt trôi vào giấc ngủ. Lúc mở mắt cô thấy Newt đã ngủ say tự lúc nào không biết.

 

Anh bắt đầu ngáy khe khẽ.

 

Catharine để Newt ngủ cả giờ đồng hồ, và trong lúc anh ngủ cô thấy lòng mình ngập tràn nỗi niềm thương yêu.

 

Bóng những cây táo càng lúc càng ngả về hướng Đông. Tiếng chuông từ ngôi trường cho người mù lại đổ.

 

“Chíc-cà-đi-đi-đi,” tiếng hót của con chim chickadee nghe lảnh lót đâu đây.

 

Từ khoảng cách xa xa vọng lại tiếng động cơ một chiếc xe đang nổ máy, rồ lên rồi lại tắt, mấy lần và cuối cùng im bặt.

 

Catharine bước ra khỏi gốc cây táo, cô đến quỳ xuống bên cạnh Newt.

 

“Newt?” Cô gọi anh.

 

“Hử?” Anh mở choàng mắt.

 

“Trễ rồi.” Cô bảo anh.

 

 “Catharine.”

 

“Newt.”

 

“Anh yêu em.” Anh bảo cô.

 

“Em biết.”

 

“Trễ quá rồi.” Anh bảo cô.

 

“Trễ quá rồi.” Cô lặp lại.

 

Anh đứng lên, vươn vai. “Thật là một buổi đi dạo thích thú.” Anh bảo cô.

 

“Em cũng thấy thế.”

 

“Mình chia tay nơi đây?” Anh hỏi cô.

 

“Anh định đi đâu?” Cô hỏi anh.

 

“Quá giang xe vào thị trấn rồi ra trình diện.”

 

“Chúc anh may mắn.”

 

“Em cũng thế.” Anh bảo cô. “Catharine, lấy anh đi.”

 

“Không.” Cô trả lời anh.

 

Miệng anh nở nụ cười, anh nhìn thật sâu vào mặt cô một lúc lâu, đoạn quay lưng bước nhanh.

 

Catharine nhìn theo bóng anh nhỏ dần dọc theo đường viễn cảnh của bóng chiều và hàng cây, cô biết nếu anh dừng chân và quay lại ngay lúc này, nếu anh gọi tên cô thì cô sẽ chạy lại anh mất thôi. Cô không có chọn lựa nào khác.

 

Newt dừng chân lại thật. Anh quay người lại thật. Anh gọi tên cô thật.

 

“Catharine,” anh gọi cô.

 

Cô chạy lại, ôm chầm lấy anh, không thốt được lời nào.

 

– Kurt Vonnegut, Jr.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam 2)Nhớ về cuộc di cư 1954. 3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75 4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose. Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris. Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.