Tục ngữ, thành ngữ là gì? Đó là một thể loại văn học dân gian, được đúc kết từ những tri thức, kinh nghiệm của dân gian dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích và có nhịp điệu nên rất dễ nhớ và dễ truyền đạt.
Nói đến ca dao, người ta nghĩ đến những câu thơ hay những bài hát ngắn, thường không có chương khúc được dùng để miêu tả, ngụ ý hay diễn đạt tình cảm dân gian.
Nội dung của ca dao, tục ngữ được làm ra phần lớn mang tính cách khuyên răn và nhắn nhủ người đời nên ăn ở và sống theo quy luật, tiêu chuẩn của đạo đức, sự công bằng và lẽ phải của xã hội. Ngoài ra, chúng còn có tính châm biếm, chê bai những thói hư tật xấu và mỉa mai những ai hành động đi chệch với đạo đức xã hội.
Nói chung, ca dao, tục hay thành ngữ, từ xưa được lưu truyền theo hình thức truyền miệng nên rất ngắn gọn, súc tích cho dễ thuộc, dễ nhớ. Nội dung thường là những hình ảnh ẩn dụ, phản ảnh và gần gũi với đời sống thường nhật nên diễn đạt được phong tục, tập quán, lịch sử và tính bông đùa trào phúng của dân gian.
Với thời gian, mọi sự thay đổi, con người và cuộc sống cũng xoay vần theo thời cuộc và những cơn lốc lịch sử. Ngày nay, các tiêu chuẩn luân lý và đạo đức ngày xưa thời Khổng, Mạnh đã không còn là chân lý hay lễ nghĩa chuẩn mực mà dân gian nhất nhất phải tuân theo. Dân gian nhìn lại ca dao, tục ngữ với con mắt khác và cảm thấy những gì người xưa khuyên răn chỉ có thể đúng vào cái thời xa lắc xa lơ cũ kỹ đó mà thôi. Người ta bắt đầu sửa và lưu truyền những câu nói hay chế ra những câu thơ mới với nội dung bông đùa, diễu cợt trên chính những câu thơ hay câu nói có tính đạo đức, khuyên răn của người xưa. Nhất là thời kinh tế thị trường, mọi thứ chuẩn mực làm đầu thời trước, giờ chỉ là chiếc áo giấy chẳng có giá trị thực tế nào hết.
Từ ngàn xưa, các câu tục ngữ mang đầy tính đạo đức khuyên dạy của tiền nhân về sự nghèo, giàu chênh lệch đã làm băng hoại xã hội như, "Đói cho sạch, rách cho thơm" đã từng được người ta đối lại bằng những câu nói lên thói đời có nội dung trái ngược "Đói ăn vụng, túng làm liều" hay "Có tiền mua tiên cũng được" hoặc "Nén bạc đâm toạc tờ giấy", " Đồng tiền liền khúc ruột" và thực tiễn hơn "Con ơi nhớ lấy lời cha, một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.".
Ngày nay, sự thoái hoá của đạo đức trong xã hội Việt Nam ngày một trầm trọng. Sự giàu có và thành công của quyền chức cao sang đã trở thành mẫu mực cho con người noi theo mà làm. Cái thanh sạch, thơm tho và hãnh diện của đạo đức đã trở nên hão huyền và lỗi thời. Những khuôn khổ đạo đức được cho vào viện bảo tàng dân gian rồi khoá lại. Để đối mặt với tính đạo đức, những mỉa mai cay độc được lập lại và lưu truyền nhanh chóng trên mạng thay cho lối nói truyền miệng.
Không ham nhà cửa, bạc tiền, chỉ ham anh có bố quyền chức to.
Ba đồng một mớ trầu cay, không bằng tình nghĩa một cây vàng mười.
Nghèo nhân, nghèo nghĩa chẳng lo, nghèo tiền, nghèo bạc mới cho là nghèo.
Làm giàu không khó, nhưng khó ở chỗ làm mãi mà không giàu.
Chồng người áo gấm xông hương, chồng em áo rách, em thương... chồng người .
Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời gái chảnh lại thương trai nghèo.
Thói ăn, tục uống của con người đã lưu lại cái xấu khiến người xưa phải thốt lời khuyên răn,
"Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa. Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.", "Ai ơi chớ uống mà say. Họ hàng ghét bỏ, chê bai lắm lời.", "Dù no dù đói cho tươi, khoan ăn bớt ngủ là người lo toan.", "Rượu men tẩn mẩn tê mê. Mảng theo con đĩ bỏ bê việc nhà.". Những câu đối nghịch lời khuyên răn như, "Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau.", "Phép vua thua lệ làng." hay "Nhập gia tùy tục." "Thế gian ba sự khôn chừa, Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ", cũng nói lên được phần nào tính thực tế của đời sống gần với lợi ích riêng của con người hơn.
Không biết tự bao giờ, thuốc lá và ăn nhậu đã trở nên những nhu cầu thiết yếu thường ngày của xã hội Việt Nam. Khắp nơi bây giờ, chỗ nào cũng có quán nhậu và khói thuốc. Từ trong nhà đến ngoài đường, từ ngõ hẻm, lề đường, đến những khu phố sang trọng. Người trẻ, người già, trai gái, thậm chí cả trẻ con đều tập trung, sinh sống quanh quán nhậu. Kẻ bán, người mua, người ăn, kẻ uống tấp nập ngày đêm, nảy sinh một nếp văn hoá mới. Ăn nhậu để giải sầu, thư giãn, ngoại giao, hay bàn chuyện làm ăn mà ngày nay người ta gọi là kỹ năng mềm. Có người nói, không có kỹ năng này thì khó thăng tiến trong công việc vì không thể đi gặp khách hàng, gặp đối tác, thương thảo và chốt hợp đồng ở quán nhậu.
Ca dao thời hiện đại về ăn nhậu cũng vì thế mà trở nên giàu có, phong phú. Tính trào phúng và bông đùa, nửa đùa, nửa thật, nổi bật trong những câu ca dao, tục ngữ biến chế. Nội dung thường bênh vực và chống chế cho việc ăn nhậu, đi ngược lại lời khuyên răn,
Miếng ngon giữa đàng, ai đàng hoàng là dại.
Đất lành chim đậu, đất không lành, đất nhậu luôn chim.
Làm trai cho đáng nên trai, đi đâu cũng lận cái chai trong người.
Rượu cũng từ gạo mà ra, ta đây uống rượu cũng là ăn cơm.
Không bia không phải đàn ông, hết bia mất vợ thì là đàn chi?
Chim khôn chọn cành mà đậu.
Gái khôn thì lấy chồng nhậu mà nhờ.
Mai sau chết bụi chết bờ khỏi chôn.
Gái khôn thì lấy chồng nhậu mà nhờ.
Mai sau chết bụi chết bờ khỏi chôn.
Trăm năm Kiều vẫn là Kiều.
Uống Rượu say cũng là điều tất nhiên.
Say rồi cũng giống thằng điên.
Thế nhưng ai cũng muốn điên dài dài.
Thân xác ở trong chai.
Tâm hồn ở ngoài chai.
Muốn nên sự nghiệp lớn.
Mỗi ngày phải vài chai.
Uống rượu không phải để say.
Uống rượu để biết đắng cay thế nào.
Uống rượu không phải để sầu.
Uống rượu để biết trong đầu nhớ ai.
Sau khi rượu vào, lời ra, trí tưởng cũng nồng nàn lên men, tứ thơ chợt nở hoa. Mọi sự bỗng trở nên chuyện bông đùa vừa thơ mộng vừa vượt hẳn rào cản luân lý, đạo đức xã hội.
Có những chiều say rượu té cầu ao.
Vợ bắt gặp, chưa mắng câu nào đã khóc.
Cô bé nhà bên nhìn tôi cười khúc khích.
Chị giận rồi, tối sang ngủ với em ...
Tình yêu của đôi lứa nam nữ là sắc màu không thể thiếu trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Đó là những ca từ sống động nhất về một loại cảm xúc đặc biệt của con người. vui buồn đan xen, trong đó nỗi nhớ chính là biểu hiện nổi bật nhất. Tình yêu là sự pha trộn lẫn lộn giữa ngọt ngào và đắng cay, mâu thuẫn giằng xé giữa hạnh phúc và đau khổ hiển hiện. Những câu nói, bài thơ ngắn ca tụng tính chung thủy hay mê đắm trong tình yêu đôi lứa đã được người xưa nâng niu, trân quý và gìn giữ để dạy dỗ người sau về đạo lý phải có của hai kẻ yêu nhau hay một cặp vợ chồng. "Gái thương chồng đang đông buổi chợ, trai thương vợ nắng quái chiều hôm.", "Thương nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua." , "Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.", "Chừng nào cho sóng bỏ gành, cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em." .
Xã hội kim tiền và nặng vật chất của thời đại, không ít thì nhiều đã chen vào làm thay đổi bộ mặt thực tế của tình yêu. Ca dao, tục ngữ thời đại được làm ra, tuy có phần nào cười cợt vào thói đời nhưng vẫn phản ảnh trung thực được mặt trái thực chất của xã hội VN ngày hôm nay.
Yêu nhau chỉ ngại đuờng xa, đi bộ mòn dép, đi xe tốn dầu.
Yêu em hổng phải vì ham, mà là anh hổng chịu cam cảnh nghèo.
Yêu nhau mấy núi cũng trèo,mấy sông cũng lội, nhưng nếu nghèo em bỏ đi.
Muốn ngủ ngon thì đừng lấy vợ, muốn không nợ thì đừng có yêu.
Ăn chanh mới biết chanh chua, yêu anh mới biết anh là sở khanh.
Không chua không phải là chanh, con trai ai chẳng sở khanh đôi lần.
Sáng trăng chiếu trải hai hàng, bên anh "xập xám", bên nàng "tiến lên".
Gió đưa bụi chuối la đà, lỡ mê vợ bé vợ nhà vẫn thương.
Vợ mình mình sợ xá gì thế gian.
Đàn ông khí khách ngang tàng.
Nghe lời vợ dạy mới hàng trượng phu.
Đàn ông đánh vợ là ngu.
Tốn tiền cơm nước ở tù như chơi.
Ai đừng một dạ hai lòng.
Đừng chê chân ngắn, đừng khen chân dài.
Chân dài là của đại gia.
Đùi to chân ngắn mới là vợ anh.
Đừng chê chân ngắn, đừng khen chân dài.
Chân dài là của đại gia.
Đùi to chân ngắn mới là vợ anh.
Ca dao, tục ngữ thời đại tuy được làm ra để bông đùa cho người đọc được thư giãn trong giây phút nhưng cũng tả chân được bộ mặt xã hội thời đại ngày nay như thế nào. Câu nào hay và chí lý người ta sẽ tiếp tục lưu truyền từ đời này qua đời khác, lâu dần sẽ thành tục ngữ ca dao. Con cháu đời sau đọc được sẽ biết được ở vào thế kỷ 21 có những sự kiện xã hội như thế đã xảy ra và cách hành xử của cha ông là như thế vậy.
Trịnh Thanh Thủy
Gửi ý kiến của bạn