GIỚI THIỆU "VŨ ĐIỆU KHÔNG VẦN"
Thơ xuất phát từ cảm xúc, là một hình thái của sáng tạo, và sáng tạo bao gồm hai yếu tố: kiến thức và tưởng tượng. Nếu không có kiến thức thì tưởng tưởng không thể nào đi xa, để tạo nên cái mới, cái đẹp. Nhưng kiến thức, theo triết gia hiện đại Đức, Immanuel Kant, là sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tại. Chẳng thế mà triết gia thởi cổ Hy Lạp, Socrates, từng giả bộ ngu dốt, tìm cách đàm thoại với mọi người chung quanh để hoàn chỉnh sự hiểu biết của mình.
Thơ thuộc về đời sống, và nhà thơ phải trầm luân trong khổ đau, nhận biết cái lẽ vô thường và vô ngã trong kiếp nhân sinh. Sau đó là sự tiếp thu vốn kiến thức từ mọi nguồn, sách vở và thực tại, mới có thể trở thành nhà thơ đích thực. Thời nào cũng vậy, có thể có nhiều người làm thơ, nhưng nhà thơ thì hiếm.
Cuốn “Vũ Điệu Không Vần” gồm 35 tiểu luận, với 632 trang, cung cấp thông tin chi tiết về ngôn ngữ, luật tắc trong sáng tác, ghi nhận những chặng đường tìm kiếm trong sáng tạo. Đặc biệt là kiến thức, hiểu biết toàn bộ về thơ, và cả những chủ đề liên quan tới thơ như Hiệu ứng cácn bướm, Nghiên cứu về não bộ, Giáo dục cổ điển phương Tây, giúp cho những nhà thơ và phê bình nghiên cứu tham khảo, trong công việc của họ. Đây cũng là tên của thể thơ không vần Việt, thường được gọi là thơ Tân hình thức.
Tiếng Anh là ngôn ngữ đa âm, nên thơ thể luật, dù có vần hay không vần ở cuối dòng, vẫn có thể dùng kỹ thuật vắt dòng (enbjament) vắt ý tưởng từ dòng này qua dòng khác, làm cho liền lạc với nhau, còn thơ tiếng Việt, vì là ngôn ngữ đơn âm, nên không thể làm chuyện đó. Vì vậy, chúng tôi đưa vào thơ Việt một thể thơ mới. Đó là thể thơ không vần, kết hợp giữa thơ vần và tự do, với ý tưởng liền lạc. Đây là yếu tố khó nhất trong thơ Mỹ, và dĩ nhiên cả thơ Việt. Thể thơ không vần Việt bao gồm; dùng lại những thể thơ Việt 5, 7, 8 chữ và lục bát, với kỹ thuật lập lại để tạo nhịp điệu và vắt dòng, tất cả kết hợp thành một bộ máy kiềm chế, cô đọng câu chữ, và biến nhịp điệu nói thành nhịp điệu thơ. Hai yếu tố căn bản của thơ Tân hình thức Việt: Ý tưởng và nhịp địệu. Ý tưởng phải mới mẻ, còn nhịp điệu mỗi bài thơ phải có một nhịp điệu khác nhau. Cả hai phải theo đúng tinh thần sáng tạo.
Khi dùng cách vắt dòng (enjambment) phá đi cách đọc dừng lại ở cuối dòng, người đọc bị thúc đẩy đi tìm lại phần đã mất (của câu), tốc độ đọc nhanh hơn, và phải đọc bằng mắt. Điều này gợi tới ý niệm thời gian và không gian trong thơ. Cái phần mất đi ấy là phần gì, phải chăng là một phần đời sống, của quá khứ hay tương lai, và như thế, hiện tại không lẽ chỉ là cái trống không? Nhưng cái trống không ấy lại chẳng trống không vì những chuyển động không ngừng của cái biết và chưa biết, đè lấp lên nhau. Thơ bật lên từ sự vặn vẹo và phức tạp của văn phạm và cú pháp (syntax), tạo thành nhịp điệu và nhạc tính. Điều rõ ràng, bài thơ và tri giác về nhịp điệu (perception of rhythm) không nằm ở ngôn ngữ (chữ), mà ở nội dung ngôn ngữ (the content of the language). Nội dung ngôn ngữ chính là những chuyển động cảm xúc trong phạm trù văn phạm và cú pháp.
Mục đích của thơ Tân Hình Thức là muốn đưa thơ Việt bước ra ngoài thế giới, nên mới chú tâm vào dịch thuật, để tìm kiếm người đọc khác ngôn ngữ và văn hoá. Nếu quá đậm đặc trong phạm trù văn hóa hay ngôn ngữ Việt sẽ không thể dịch vì làm sao dịch âm thanh (sound) ngôn ngữ, đặc biệt đối với những thể thơ truyền thống, khi kết hợp những đơn vị âm thanh đó, tạo nên nhạc tính trong thơ. Để đáp ứng điều kiện dịch thuật, thơ Tân hình thức phải thay đổi cách sáng tác. Về chữ, khi chuyển sang ngôn ngữ đời thường để sáng tác, thơ không còn những chữ hiếm, chữ lạ, và người đọc không bị vướng vào chữ khi đọc.
Với phong cách, thơ gần với văn xuôi và sử dụng kỹ thuật lập lại để tạo nhịp điệu, nên khi chuyển dịch vẫn giữ được nhịp điệu và làm biến mất dấu vết của văn xuôi, thành thơ. Kỹ thuật lập lại giúp cho thơ Việt có thêm một yếu tố nhịp điệu mới và khi dịch sang tiếng Anh vẫn không mất đi. Người đọc Mỹ sẽ đọc như một bài thơ chứ không phải một bản dịch. Một ưu điểm nữa là những người đọc Mỹ sẽ được đọc những bài thơ khác lạ, am hiểu thêm về đất nước và con người từ một nền văn hóa khác.
Thế kỷ 20, phương Tây phát triển mọi mặt, về khoa học, triết học cũng như văn học, và là thế kỷ vượt trội của thơ tự do, đặc biệt là thơ Mỹ, một dòng thơ mạnh về ý tưởng. Thơ hiện đại Pháp và Mỹ kéo dài đến năm 1930, từ tập niên 1950 tới 1980 là thơ hậu hiện đại Mỹ, với những phong trào tiền phong, vừa phức tạp vừa khó hiểu. Cuối thập niên 1980, thơ tự do cáo chung, thơ Mỹ quay trở lại thể luật, với ngôn ngữ đời thường.
Theo G. K. Chesteron, nhà thơ, triết gia, kịch tác gia người Anh, “cách mạng là phục hồi (restoration), đoạt lại (recapturing), giới thiệu lại một điều gì đó đã từng được hướng dẫn và truyền cảm hứng từ trong quá khứ.” Hay nói khác, “là cuộn lại (re-roll), quay trở lại (return), đi vòng quanh một lần nữa.” Nhà nghiên cứu văn học, PGS. TS Trần Hoài Anh giải thích thêm, “Sáng tạo nào cũng không chấp nhận sự đứng lại, sự đóng băng, sự trì trệ, bảo thủ khi mãi giam mình trong một “thành trì’ tưởng chừng vững chắc, nhưng đó là sự vững chắc nhằm che chắn những giới hạn và thất bại của mình.”
Tiếng Anh là một ngôn ngữ khó, về cả ngôn ngữ và văn phạm.Về ngôn ngữ, tiếng Anh có khả năng tiếp nhận mọi ngôn ngữ trên thế giới, vì vậy số từ ngữ vô cùng phong phú. Tiếng Anh có hơn một triệu từ, khoảng 170 ngàn từ được dùng, và mỗi cá nhân thông thường dùng khoảng 20 đến 30 ngàn từ. Nếu so sánh với những ngôn ngữ khác, như tiếng Pháp chẳng hạn, tối đa cũng chỉ khoảng 130 ngàn từ. Về văn phạm, tiếng Anh không đơn giản chỉ có động từ hiện tại, quá khứ và tương lai, mà còn có nhiều loại quá khứ và tương lai, mỗi thì quá khứ hay tương lại chuyên chở những ý tưởng khác nhau. Vì thế, tiếng Anh là một ngôn ngữ linh động, và là một ngôn ngữ thơ.
Những nhà xuất bản sách báo, ngay cả những xí nghiệp lớn, cũng cần một ngưởi editor (chủ biên) để điều chỉnh cho đúng ý tưởng trong sách báo hay những báo cáo. Nhưng editor về ý tưởng, bao gồm cả những giáo sư dạy văn chương tại các trường đại học, chỉ quan tâm tới ý tưởng cho chính xác, chứ ít quan tâm tới văn phạm. Ngay những nhà văn, họ viết theo cách nói, mà cách nói thì dễ sai văn phạm.
Báo Giấy có hai editor Mỹ chuyên nghiệp, Dr. Carol Compton và Richard Sindt, cung cấp cho bạn đọc thông tin và kiến thức cập nhật về thơ và những hiểu biết về ngôn ngữ.
– Báo Giấy: Trước kia, ra mỗi tháng một số, bây giờ thì 2 tháng. Mới nhất là số 57. Ngoài những sáng tác về thơ Tân hình thức Việt, còn có tiểu luận dịch từ tiếng Mỹ qua tiếng Việt, do tác giả người Mỹ gửi tới, hoặc chúng tôi mua từ những websibe chuyên bán các loại tiểu luận và sách Ebook, đủ các loại từ triết học tới văn học, khoa học ...
– Báo song ngữ Anh Việt (Journal Poetry), cứ cách 2 số báo tiếng Việt thì lại ra 1 số báo song ngữ. Mới nhất là số 10. Báo song ngữ, qua dịch thuật, bạn đọc có thể đọc và so sánh hai ngôn ngữ để hiểu ý nghĩa những bài thơ và tiểu luận, vì những từ ngữ dùng khó tìm thấy nghĩa trong tự điển.
KHẾ IÊM
Tên thật Lê Văn Đức sinh năm 1946 tại Lê Xá, Vụ Bản, Nam Định. Chủ trương Tạp Chí Thơ tại Hoa Kỳ và phong trào thơ Tân hình thức Việt. Chủ biên Blank Verse (Thơ Không Vần, 2006) và Thơ Kể (Poetry Narrates (2010), cả hai là thơ Tân Tân hình thức Việt, ấn bản song ngữ. Tác Phẩm: Hột Huyết (kịch, Sàigòn 1972), Thanh Xuân (Tạp chí Văn, 1992), Dấu Quê (Traces of My Homeland, ấn bản song ngữ. Tan Hinh Thuc Publishing Club, 2013), Thơ Khác (Other Poetry, ấn bản song ngữ, Tan Hinh Thuc Publishing Club, 2011). Stepping Out, Essays on Vietnamese Poetry (Bước Ra, ấn bản song ngữ, Tan Hinh Thuc Publishing Club, 2012).
Ông tham gia hội nghị hàng năm lần thứ 56 (2004) của Hiệp hội Nghiên cứu Á châu (Association Asian Studies) về thơ các quốc gia vùng Đông Nam Á, gồm Thái Lan, Phi Luật Tân và Việt Nam, với chủ đề, “Poetry as a Window on History and Change in Southeast Asia” (Thơ, cửa sổ qua lịch sử và biến đổi tại Đông Nam Á).
Ông cũng tham gia buổi đọc thơ song ngữ Anh Việt tại Irvine, Orange County, California ngày 20 tháng 11, 2016, trong chương trình Đọc Thơ (Poetry Reading) khắp 58 quận thuộc tiểu bang California, do nhà thơ danh dự tiểu bang Dana Gioia tổ chức, cùng với nhà nghiên cứu âm nhạc trẻ Tina Hùynh.