Hôm nay,  

Theo Bóng Thời Gian Vào Cõi Thơ Của Thy An

25/09/202000:00:00(Xem: 2897)

HINH BIA TAP THO CUA THY AN

Hình bìa tập thơ “Thơ Đi Về Một Góc Đời” của Thy An.


Dường như đối với nhiều người, thời gian chỉ là bước đi thầm lặng và quen thuộc của mọi thứ có mặt trên trần gian trong vận hành liên lỉ của xuân hạ thu đông. Nhưng đối với nhà thơ Thy An, thời gian mang ý nghĩa đặc biệt.

 

“ngày trông thế sự bi hài

đêm mang thiên cổ giải bày chuyện xưa”

 

Hai câu thơ trên được trích từ bài thơ “Lục Bát Tha Hương” trong tuyển tập “Thơ Đi Về Một Góc Đời” được xuất bản vào giữa năm 2020 của nhà thơ Thy An.

Tập thơ dày trên 220 trang với hơn 100 bài thơ. Nhà thơ Thy An đã có trên 6 tác phẩm được ấn hành từ năm 1968 đến nay. Anh có thơ đăng trên nhiều trang văn học như Hợp Lưu, Da Màu, v.v…

Trong tuyển tập “Thơ Đi Về Một Góc Đời” người đọc thấy dấu vết của thời gian có mặt khắp nơi trong các bài thơ. Chẳng hạn, “Bài thơ cho tháng mười một,” “Bài thơ tám chữ đầu năm,” “Bước chân tháng 5,” “Cái nóng bất thường tháng tư,” “Cảm tưởng lạ đầu năm,” “Chiếc xe bò chiều thu,” “Chiều tháng mười một,” “Chờ một ngày…” “Chút buồn hôm nay,” “Cúng thất tuần của bạn,” “Cuối hạ chào đêm,” “Đêm mưa âm lịch đầu năm,” “Độc thoại mùa đông,” “Gối đầu lên đá tháng tư,” “Mùa đông giấu chữ nghĩa,” “Mùa thu ngôn ngữ trụ lại,” “Mùa xuân đợi bình minh,” “Tháng ba như mộng ảo,” “Tháng bảy 2018,” “Tháng chín nhìn mặt trời,” “Tháng giêng treo nỗi buồn,” “Tháng hai, tháng ba ta trở về,” “Tháng sáu lặng lẽ,” “Tháng tám em về,” “Tháng tư giọt mưa buồn,” “Thơ tháng chín,” “Tiễn tháng mười hai,”…

Có lẽ tôi chưa bao giờ đọc một tuyển tập thơ nào mà bóng dáng của thời gian rọi dài theo con chữ như tuyển tập thơ của Thy An. Âm ba và hình ảnh của bốn mùa xuân hạ thu đông, cùng với dấu vết thời gian từng tháng, từ tháng giêng tới tháng chạp, từ Tết ta đến Tết tây dập dìu nối tiếp nhau đi mãi trong thơ của anh.

 

vì thời gian hiếm hoi còn lại

sẽ cạn dần theo năm tháng tiêu hao…

(Thy An, Lời Độc Thoại)

 

Phải chăng vì sợ thời gian “cạn dần theo năm tháng” sẽ làm “tiêu hao” những gì quý giá của đời người, nên lúc nào anh cũng không quên nghĩ đến thời gian.

Nhưng thời gian của Thy An không phải là bước đi biến dịch vô tri của không gian. Nó là bước nhảy của tâm thức quyện tròn theo vũ điệu của thể mệnh con người anh.

Thơ của Thy An chảy theo dòng thời gian đó. Có lúc êm xuôi như cơn nắng quái của buổi chiều tà nơi ngọn đồi thơ mộng. Có khi dạt dào rộn rã như tiếng sóng nơi bãi biển cô liêu. Và cũng có khi trầm lắng mênh mông như ánh trăng huyền ảo của đêm thu lành lạnh ở một góc trời nào xa xăm miền viễn xứ.

Thời gian của Thy An chuyên chở nhiều thứ lắm: kỷ niệm vui buồn, tình yêu được mất, quê hương yêu dấu một thời, hiện thực đất nước tối tăm…

 

một ngày cuối tháng tư

em hãy nhắm mắt tưởng tượng

những con sâu, con dế trên cánh đồng khô cạn

những đền đài lăng tẩm mang những khổ ải

nếu còn can đảm và tình yêu cho nhân gian

em hãy thắp lên chút lửa từ bóng tối

thấy bóng mình in trên tường

lặng lẽ và cô đơn như quê hương…

(Thy An, Nói Cùng Em Cuối Tháng Tư)

 

Quê hương trong thơ của Thy An qua cỗ xe thời gian chứa đầy những ký ức của một thời lịch sử quá khứ oai hùng và những hình ảnh rất thân thiết mà một thời nhà thơ đã cảm nghiệm.

 

nhớ chuyến xe đời cọc cạch chở thúng hoa vào chợ

những người đàn bà tay bế tay bồng

nuôi bao đứa con khôn lớn bên sông

nhớ giọng trầm trầm của thầy, của cô

của cha của mẹ

dạy bài học thuộc lòng

lịch sử anh hùng với những con người ngửa cổ xem thường cái chết

về những pho tượng đồng, khuôn mặt sống mãi với thời gian

về đạo làm người giấy rách giữ lề

tổ tiên từ ngàn xưa đã viết và sống trong nhân cách

nhớ từng khuôn mặt bạn bè ngày xưa bỡn cợt

thoáng chốc hơn năm mươi năm

(Thy An, Những Nỗi Nhớ Đầu Năm)

 

Quê hương trong thơ Thy An còn là một “đất nước điêu tàn…”

 

mảnh quê hương đất nước điêu tàn…

và rồi sẽ còn bao nhiêu cánh cửa khác

khép lại từng nỗi niềm ký ức

trầm luân điệp khúc buồn

vầng trăng buổi tối phù du?

(Thy An, Nơi Ấy)

 

Nhìn cuộc đời qua lăng kính “phù du” nên tình yêu của Thy An cũng “phiêu bồng lãng đãng.”

 

bởi vì em là người lữ hành cô độc

nên anh sẽ đọc em nghe

bài thơ viết bằng hơi thở của đêm

và sương mai buổi sớm

anh sẽ gom lửa từ vạn tinh cầu

thắp lên ngọn nến hồng tàn lụi

chứng tích của trái tim anh

phiêu bồng lãng đãng

rọi xuống đời nhau khoảng tối âm u

(Thy An, Bởi Vì Em)

 

Có lúc nhà thơ trầm tư về thân phận con người và anh đã nhìn ra cái đầu mối cơ bản mà từ đó chúng ta bị quay cuồng trong cõi trần ai. Anh đã thấy rằng tâm thức cuốn trong ngũ uẩn là căn nguyên của mọi vấn đề.

 

mai này huyễn ảo mùa trăng

nhớ chi cổ độ còn chăng bến mờ

ngắn câu, nỗi nhớ thành thơ

dài lời, trăn trở hững hỡ tiếng ca

về đâu tâm thức ta bà

cuốn trong ngũ uẩn mặn mà trần ai

(Thy An, Lục Bát Tha Hương)

 

Ngũ uẩn là năm yếu tố cấu tạo con người: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Sắc là thân thể vật chất. Thọ là cảm thọ khi năm giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân) tiếp xúc với năm trần cảnh (hình và màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị ngọt đắng cay bùi…, xúc chạm). Tưởng là giữ lấy trần cảnh đó trong tâm. Hành là khởi ý niệm. Thức là ý thức nhận biết và phân biệt. Ngũ uẩn là ngục thất giam giữ con người trong cõi trần ai. Cho nên, khi giác ngộ được bản chất không có tự ngã, hay không có tự tánh của ngũ uẩn thì tức khắc giải thoát, như trong Tâm Kinh Bát Nhã có nói rằng khi Bồ Tát Quán Tự Tại quán chiếu năm uẩn đều không thì giải thoát mọi khổ đau – “Quán Tự Tại Bồ Tát hành, thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.”

 

bao năm tháng chẳng hiểu vô thường vi diệu

học tâm kinh ào ạt gió tạt đầu sông

nghe run rẩy con tim nặng chìm vọng động

nhìn áo cà sa trôi nhẹ tựa lông hồng

 

cầm hạt bụi ướt sương đi vào vườn trúc

mở cổng chùa xưa như kẽo kẹt dưới trăng

điều gì đó long lanh trong từng ánh mắt

cười vu vơ thơ gõ nhẹ xuống lưng đời…

(Thy An, Lang Thang Vườn Trúc)

 

Thời gian của Thy An không ra đi biền biệt như mũi tên bắn ra không quay lại, hay như lữ khách đi lạc đường về. Thời gian trong thơ của Thy An là con đường đi về, quay về sau những chuyến đi dài trên hành trình sanh tử trầm luân, cho dù với “nỗi truân chuyên đời.”

 

ta về ấm lại mùa xuân

mưa rơi ướt đẫm nỗi truân chuyên đời

chân như gieo tiếng gọi mời

lần theo bóng hạc mấy lời từ tâm

(Thy An, Trên Tay Kinh Rụng)

 

Hay:

 

ta về ray rứt thiên thu

chân đi xiêu vẹo bến mù cõi xưa

mở ra mấy cửa đại thừa

trên tay kinh rụng lọc lừa phù sinh

vườn em hoa nở một mình

mấy cành sương đọng an bình tâm can

leo thuyền bát nhã lên ngàn

nghe đâu chuyển tiếp muộn màng pháp luân

(Thy An, Trên Tay Kinh Rụng)

 

Dường như đây là bài thơ lục bát duy nhất trong toàn bộ tuyển tập Thơ Đi Về Một Góc Đời của Thy An. Hầu hết các bài thơ đều ở thể tự do. Thơ của anh nhẹ nhàng và không cầu kỳ nên đọc lên thì chữ nghĩa bay thẳng vào tâm ý người đọc. Có điều khá đặc biệt là thơ anh bàng bạc tư tưởng Phật Giáo nhìn thấu suốt vào bản chất cuộc đời và phảng phất hương vị giải thoát.

 

lời kinh xưa rụng xuống nhiệm mầu

bụi phấn thanh xuân bay theo gió lạnh

chợt thấy bóng ngã trên đường vắng

mấy nhịp sầu lên vạt nắng thiết tha

(Thy An, Mưa Trên Đôi Vai Gầy Đạm Bạc)

 

Cho dù cuộc đời có sầu khổ thì cũng nhẹ và mỏng như “bụi phấn thanh xuân” bay theo gió, hay như “vạt nắng thiết tha.”

Góc đời của nhà thơ Thy An là thế!

Cảm ơn Thy An.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nguyễn Hữu Liêm là một người đa dạng, không chỉ trong nghề nghiệp mưu sinh, mà cả trong những lĩnh vực cầm bút, lý luận. Ông là một người gây tranh cãi trong những nhận định về cộng đồng, và cả trong những bài viết về rất nhiều đề tài, như văn hoa, triết học, tôn giáo, chính trị. Dĩ nhiên, sôi nổi nhất là lĩnh vực chính trị. Nguyễn Hữu Liêm mưu sinh với nghề Luật sư, giảng dạy Triết. Những bài viết của ông bất kể gây tranh luận thế nào trong cộng đồng, vẫn là những đề tài cần được cộng đồng suy nghĩ nghiêm túc. Do vậy, từ một bàn viết lặng lẽ ở San Jose, Nguyễn Hữu Liêm trở thành người khơi dậy những cuộc tranh luận không chỉ ở hải ngoại, mà còn cả trong Việt Nam.
Đặng Thơ Thơ cùng thế hệ với ông bác, em ruột mẹ tôi, sống trong thời Việt Nam Cộng hòa và cũng như ông bác tôi, Thơ Thơ xa xứ cùng gia đình, người bác theo ngành y còn chị ngành giáo dục, viết văn, sáng lập trang Da Màu như cách để giữ gìn bản sắc và ngôn ngữ Việt. Xa quê mới nhớ nhà, rời nhau mới ngẩn ngơ căn nhà cắt rốn, sợ mất tiếng mất giọng, ngôn ngữ bay tro nên việc người Việt tha hương lập ra các trang Văn Hải Ngoại là cách đại đoàn kết khỏi cảnh nhớ nhà, đồng thời đấy cũng là sân chơi, thư viện lưu trữ bản thảo, để người trẻ muốn tìm tòi giai đoạn 20 năm miền Nam, muốn thử sức mà không cần phải trình bày thành tích đăng báo, in sách chung sách riêng đều có thể liên lạc.
Không ai ngờ nhà thơ này làm được các bài thơ kể chuyện về các Thiền sư Việt Nam trong thể thơ Đường luật, y hệt như khai mở lại một mạch nguồn thi ca sinh động. Những bài thơ của thầy, tinh luyện từng chữ, dịu dàng mang hơi thở Thiền Tông Việt Nam. Tôi đọc và kinh ngạc, như gặp lại một tri kỷ những năm rất xưa cũ, nhưng với một chân trời thi ca hoàn toàn mới. Nơi đó, riêng một mình Thầy Thích Chúc Hiền bước đi đơn độc, trong văn phong thanh thản, giữa những như dường gian nan trong từng chữ, từng ý đối, từng vần trau chuốt khó gieo, và trong từng âm vang Thiền ngữ. Tôi đọc và cảm nhận từng trang thơ đầy những tràn ngập hạnh phúc, hẳn nhiên là cho cả thi sĩ Thích Chúc Hiền và cho cả những độc giả khó tính như tôi. Từ thầy, tôi nhận ra rằng thơ Đường luật không hề cũ, chỉ là vì mình đã tránh né một lối đi rất khó khăn của thi ca.
THUYỀN là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống, dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác...
Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
Cuốn tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của nhà văn Trịnh Y Thư là một tác phẩm ám ảnh và đầy trăn trở, khiến tôi phải đọc đi đọc lại và phải suy ngẫm nhiều lần. Vì sao? Vì mỗi khi khép sách lại, tôi luôn có cảm tưởng dường như mình đã bỏ sót một điều gì đó…
Tôi sẽ nói gì về Phiến Hạ khi mùa hè chưa tới? Khi biển đã rộn ràng khơi nồng trong gió? Tôi có thể gợi khêu gọi nắng lên nhân quần khi lạnh gây vẫn u ẩn không gian? Có lẽ tôi sẽ mơ một khắc giây hội tụ, khát vọng liền tâm. Những mối dây xoắn gút cột thắt linh hồn. Ôi tôi mong bức đứt, chặt phăng mắt xích trói ghì...
Viết cho thế hệ trẻ là quan tâm lớn của nhiều nhà văn gốc Việt. Và mới trong tháng qua, nhà văn Trần Ngọc Ánh vừa ấn hành 2 bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp của tập hồi ký “Ba, Con Không Muốn Là Người Cộng Sản.” Bản dịch sang tiếng Anh do dịch giả Kim Vũ từ California thực hiện, nhan đề “Daddy, I don't Want to be a Communist.” Bản dịch sang tiếng Pháp do dịch giả Bảo Hưng từ Paris thực hiện, nhan đề “Papa, Je ne voudrais pas être communiste.” Cả hai bản dịch này ấn hành chung trong cuốn sách dày 184 trang. Bìa sách thực hiện bởi hai họa sĩ: Trần Nho Bụi và Phan Trường Ân. Một số tranh trong sách là từ họa sĩ Nguyễn Tư.
Có những cách để tưởng niệm 50 năm ngày Miền Nam tự do sụp đổ. Trong khi những cuộc hội thảo, chiếu phim, nhạc hội... do cộng đồng tổ chức sôi nổi khắp những tuần lễ trong tháng 4/2025, nhà văn Phan Nhật Nam và dịch giả Kim Vu có một cách lặng lẽ hơn: Dịch giả Kim Vu trong tháng Tư 2025 đã ấn hành tác phẩm tiếng Anh “The Sound Of A Suffering Land” – tuyển tập bản dịch 8 truyện của nhà văn Phan Nhật Nam.
Thơ mộng, uyên bác, thấu suốt Phật lý... Những dòng thơ của Thầy Tuệ Sỹ hiện lên trang giấy như các dãy núi nơi những đỉnh cao ẩn hiện mơ hồ giữa các vầng mây. Do vậy, dịch thơ Thầy Tuệ Sỹ qua tiếng Anh cũng là một công trình lớn, khi phải cân nhắc từng chữ một để giữ được cái thơ mộng, cái uyên bác, và cái nhìn thấu suốt ba cõi sáu đường của một nhà sư thiên tài, độc đáo của dân tộc. Hai dịch giả Terry Lee và Phe X. Bạch đã làm được phần rất lớn trong việc giới thiệu thơ của Thầy Tuệ Sỹ cho các độc giả trong thế giới Anh ngữ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.