Hôm nay,  

Mất cân bằng trong kinh tế toàn cầu: khoảng cách giàu nghèo trong xã hội (Bài 3)

17/12/201909:48:00(Xem: 6303)

Khoảng cách giàu nghèo ở Tây Phương hiện gây ra những cơn chấn động về chính trị nhưng thiết tưởng cần nhận biết chính xác triệu chứng nằm ở đâu rồi sau đó mới đi tìm nguyên do và phương thuốc giải quyết. Tuy hai ứng cử viên dẫn đầu trong cuộc bầu cử Tổng Thống 2020 là ông Bernie Sander và bà Elizabeth Warren cáo buột thành phần 1% chóp bu trong xã hội tóm gọn phần lớn tài sản trong nước nhưng đây là kiểu nhìn Mác-Xít hô hào giai cấp thợ thuyền đấu tranh chống giới chủ nhân, nông cạn mang đầy tính khích động quần chúng nên đã dẫn đến những chủ trương sai lầm như dùng sưu cao thuế nặng để trừng phạt và triệt hạ giới tỷ phú.


Trước hết phải thấy rằng tài sản được phân phối rất khác nhau giữa các nước Âu-Mỹ và những quốc gia đang mở mang. Bài viết này không rập theo khuông mẫu dùng trong kinh tế học mà dùng hình ảnh bình dân cho dễ hiểu:


  • Tại Việt Nam và Trung Quốc giàu nhất là các đại gia, rồi đến giới trung lưu trí thức và sau cùng gồm đám đông quần chúng công và nông dân. Thành phần lao động được xem thuộc diện nghèo.


  • Ở Hoa Kỳ trên cùng là con số 0.001% tỷ phú chóp bu; rồi đến thành phần ưu tú (luật sư, bác sĩ, tài chánh, ngân hàng v.v…); giới trung lưu trí thức (kỷ sư, thuế khoá, dịch vụ thương mại v.v…); sau đó là giới trung lưu-công nhân; rồi mới đến dân nghèo (nông nghiệp chỉ dùng 1.3% lao động tại Mỹ nên tạm thời không xếp hạng). Nhiều người nghèo nhiều không đi làm chỉ để nhận trợ cấp xã hội, cho nên bài này chỉ quan tâm đến thành phần muốn và sẳn sàng đi làm nhưng vẫn không đủ sống. Khủng hoảng chính trị xãy ra vì giai cấp trung lưu là nồng cốt cho nền dân chủ nhưng giới trung lưu-công nhân bị hạ lương hay mất việc do toàn cầu hóa và tự động hóa nên thụt xuống thứ hạng nghèo, và trong tương lai không xa khi một số ngành nghề trung lưu trí thức cũng sẽ bị đe dọa bởi điện toán hóa và trí tuệ nhân tạo.


Như vậy tại Việt Nam và Trung Quốc người lao động tranh đấu để tiến lên đời sống trung lưu. Riêng ở Hoa Lục 800 triệu người đã vượt ra khỏi ngưỡng cửa nghèo khó chỉ trong vòng 40 năm, con số còn lại tuy biết bị bóc lột nhưng vẫn sẵn sàng làm việc 12-14 tiếng mỗi ngày để bắt kịp. Nền kinh tế của các nước đang phát triển tăng trưởng giống như đoàn xe chạy lên đèo, tuy xe đầu vọt nhanh hơn xe cuối nhưng tất cả đều lên dốc. Trái lại ở Mỹ, Anh, Pháp giới trung lưu công nhân phật phòng lo sợ rơi xuống cảnh nghèo khi lương bổng và mức sống của họ chẳng những không tăng mà còn thụt lùi so với lạm phát. GDP của Hoa Kỳ tiến mạnh nhưng giống như chuyến tàu hỏa bị đứt mốc xích ở giữa nên hai toa đầu còn vọt lên nhanh hơn lúc trước trong khi các toa phía sau thụt lùi và bị bỏ rơi ngày càng xa.  Lèo lái hai khúc tàu không nối liền nhau còn hiểm nghèo hơn kéo cả một đoàn xe cùng lên dốc rất nhiều!


Vào những thập niên 1950-1970 công nhân Mỹ tuy không có bằng đại học nhưng làm việc trong các hảng Ford, GM, những nhà máy thép và than đá cũng có thể mua sắm nhà và xe hơi. Họ có công ăn việc làm bền vững trọn đời, nhận bảo hiểm sức khoẻ và khi về già sống bằng hưu bổng (pension) của công ty. Mọi người đều dự phần khi kinh tế tăng trưởng. Nhiều nhà kinh tế cho rằng rằng lãnh vực sản xuất (manufacturing) chính là cổ máy đưa những người tuy không cần học vấn cao nhưng vẫn tiến lên đời sống trung lưu, nhận xét này quan trọng vì trung lưu là nền tảng của dân chủ trong khi trong một nước không thể nào ai cũng có bằng đại học. 


Nhưng đến giai đoạn hậu công nghiệp thì nền kinh tế chuyển đổi từ sản xuất (manufacturing) sang sáng tạo (innovation) và dịch vụ (services). Giới chuyên gia hô hào tự do thương mại toàn cầu sẽ nâng cao mức sống của mọi tầng lớp dân chúng một khi dây chuyền sáng tạo, sản xuất cho đến phân phối được hữu hiệu hóa và phân công phù hợp theo lợi thế của từng quốc gia. Hảng xưởng Tây Phương chạy theo toàn cầu hóa di dời từ Âu-Mỹ sang Đông Á nhằm khai thác nguồn nhân công rẻ, các quy định môi trường và luật lao động lỏng lẻo. Kết quả khiến thành phần trung lưu-công nhân ở Mỹ mất việc trở nên phẩn nộ cho rằng giới chủ nhân chỉ lao theo lợi nhuận mà bán đứng người lao động, trong khi nhà nước khờ dại ký kết vào các hiệp ước thương mại nhưng chỉ đem lại lợi ích bất tương xứng cho các nước đang phát triễn thay vì bảo vệ quyền lợi dân chúng Hoa Kỳ. Họ cho rằng chính quyền và giới thượng lưu đã gạt gẫm dân chúng khi rao bán rằng toàn cầu hóa mang lợi đồng đều đến cho mọi người, nhưng rồi sau đó cấu kết lẫn nhau để xây dựng một trật tự thương mại chỉ có lợi cho thành phần ưu tú mà thiệt hại cho giới trung lưu (the system is rigged) nên nay đã đến lúc phải bị gạt bỏ (drain the swamp) mà đặt quyền lợi của nước Mỹ trên hết (America First – dịch từ tiếng Anh theo ngôn ngữ rất hìệu quả của Trump để thu hút cử tri lao động). Nếu chính phủ Mỹ chấm dứt ưu đãi thuế má cho xí nghiệp đầu tư ra nước ngoài, đòi hỏi tiêu chuẩn về lao động và môi trường đồng đều ở các quốc gia cạnh tranh, chống phá giá đồng bạc, chống hàng rào thuế quan ngăn chận hàng mua từ Hoa Kỳ thì người công nhân ở Mỹ sẽ tìm lại lợi thế so với các nước đang phát triễn. 


Trở lại với khoảng cách giàu nghèo ở Mỹ thì người công nhân mất việc không tìm ra mức lương tương đương trong các lãnh vực khác. Xã hội hậu công nghiệp chú trọng về sáng tạo và dịch vụ: sáng tạo đòi hỏi bằng cấp và trình độ kỷ thuật cao; lương bổng tốt chỉ có trong các dịch vụ chuyên môn như y tế, tài chánh, thợ điện, thợ ống nước, v.v… còn làm việc trong nhà hàng, chợ búa hay lái taxi chỉ là những công việc tạm bợ sống qua ngày với đồng lương tối thiểu chớ không thể xem là có nghề nghiệp và tương lai vững chắc.


Người lao động với đồng lương thấp không đủ trả tiền nhà, bảo hiểm y tế và giữ trẻ chớ đừng nói gì đến lo cho con cái lên đại học hay lúc tuổi già, cho nên giới trung lưu-công nhân phẩn nộ vì không thấy lối thoát cho chính họ và cho thế hệ tiếp nối. Tiền của trong xã hội không có chổ đầu tư vào lãnh vực sản xuất nội địa nên đổ đồn vào khu vực địa ốc và chứng khoáng giúp cho các tỷ phú, giới ưu tú và trung lưu trí thức trở nên giàu có hơn nhờ vào mua bán những tài sản loại này. Cho nên khoảng cách giàu nghèo tăng vọt không phải chỉ so với giới 0.001% tỷ phú chóp bu mà chính là giữa 20% phần trên 80% dân chúng còn lại.


Dân Mỹ không chống nhà giàu mà trái lại ngưỡng mộ các tỷ phú như Bill Gates (Microsoft) hay Jeff Bezzo (Amazon) vốn đã xây dựng sự nghiệp khổng lồ nhờ vào tài năng và trí óc. Thay vì trừng phạt nhà giàu thì nước Mỹ cần tạo môi trường để phát triễn thêm nhiều nhân tài và tỷ phú loại này để khai phá những lãnh vực mới, qua đó thúc đẩy kinh tế phát triển và tạo hàng triệu công ăn việc làm với mức lương cao. Cần phải giảm thuế để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư trong nước nhưng bít các lổ hỏng để người giàu không trốn tránh thuế má.


Nhà nước phải có chương trình đầu tư khổng lồ về hạ tầng để xử dụng nguồn nhân lực trong nước; cần lấp các lổ hổng trong những hiệp ước mậu dịch; phải hổ trợ giáo dục chuyên ngành như y tá, thợ sửa xe, thợ điện, v.v… chớ không thể hoàn toàn chú trọng vào bằng cấp 4 năm.


Tuy nhiên câu hỏi chính vẫn là trong giai đoạn hậu công nghiệp tìm đâu ra một cổ máy kinh tế nhằm thay thế khu vực sản xuất để đưa đa số quần chúng dù không có bằng đại học vẫn tiến vào được giai cấp trung lưu? Các chính sách thuế má, đầu tư, giáo dục sẽ như thế nào để thúc đẩy sự hình thành và phát triễn của cổ máy kinh tế này? 


Đây sẽ là những vấn đề cho loạt bài sau.  



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.