Hôm nay,  

Xuân Về Nhớ Mẹ, Tết Đến Nhớ Chuyện Trong Tù

01/01/201909:58:00(Xem: 4487)

Thường thường mỗi khi Xuân về, Tết đến, là mỗi lần làm cho tinh thần tôi bị băng hoại, nghĩ vơ nghĩ vẩn, lo sợ viễn vông, bởi những ám ảnh ê chề của quá khứ, nó vẫn còn lẩn tha lẩn thẩn đâu đây để đày đọa tâm tư tôi lịm chết. 

Nhớ lại những ngày Tết ở trong tù, hồi còn bị giam ở Củng Sơn, Phú Yên, núi rừng trùng trùng điệp điệp, trại tù thuộc Liên Khu 5, nằm dọc theo dãy núi Trường Sơn, cạnh một con suối to, nước gầm thét như thác đổ về, lòng suối thật sâu, cứ gần đến Tết, lũ lụt lại kéo về, nước chảy xiết, nghe rào rào, mang theo những khúc gỗ từ triền núi cao bơ vơ xuôi về, trôi mãi, không biết ghé vào đâu…
Vào những ngày mưa lũ như thế, lệnh lao động khẩn cấp với tình trạng ‘thông tầm.’
(Làm ngày không đủ, Tranh thủ làm đêm, Làm thêm giờ nghỉ). Lệnh được ban hành, không miễn trừ bất cứ ai, dù tù nhân chính trị, bệnh nặng hay nhẹ, tất cả đều phải tập trung dưới bầu trời xám xịt, mây đen vần vũ.
Đoàn tù bụng đói meo, áo quần rách tả tơi, bị cưỡng bức đi lao động khẩn trương.
Sáng ba mươi Tết, có toán đi vào rừng sâu lấy củi, toán kéo gỗ trên triền núi cao, toán đào khoai, bới sắn mì, có toán phải vào sâu trong rừng chặt tre về chống bão. Đoàn tù phải trèo lên dốc cao, lặn lội từ bên này dãy núi sang bên kia khu rừng già, cây cối rậm rịt, lá cành che phủ, không tìm thấy bầu trời, chỉ nghe về phía xa xa, tiếng nước reo sùng sục của những con suối đang giận dữ tràn về.
Toán khác phải ra ruộng, đấp đê, chống lụt. Mỗi người mỗi việc, mỗi toán, mỗi đội “khẩn trương”, với chán vạn việc làm, không được trì trệ, “tranh thủ” bắt tay vào lao động từ lúc rạng đông đến khi trời chạng vạn tối, đoàn tù mới lủi thủi, thất tha thất thểu, trở về trại giam, áo quần uớt sườn sượt. Người nào người nấy thở không ra hơi, mà còn phải nghe cán bộ quản giáo gái, đi ưỡn ẹo theo đoàn tù, với lời lẽ chanh chua: “Rằng thì là chưa đủ chỉ tiêu của trại đề ra. Tối nay trong sinh hoạt của lán phải làm kiểm điểm để rút ưu khuyết điểm, làm tốt công tác lao động cho ngày Mùng Một Tết, hôm sau.”
Đêm hôm đó, khi đoàn tù trở về trại, giao thừa cũng vừa đến giờ giao điểm. Đoàn tù bước vào trại, cửa đóng then gài kín mít. Leo lên sàn gỗ, tôi thẩn thờ nhớ Mẹ ngập tràn thân xác. Tôi cố nhìn qua khe hở của cánh cửa sổ nhà giam. Ngoài sân, bóng tối dầy đặc. Đêm yên tĩnh.
Mấy hàng thông trụi lá, hờ hững, lạnh lùng, nặng trĩu những cành chùm gửi, rũ xuống, nhảy múa, chạy dài, lung linh trên mặt đất, xao động, biến dạng thành hình thù như những bóng ma trơi.
Vài giọt mưa gõ xuống từ mái nhà giam. Mưa càng lúc càng nặng hạt. Mưa tầm tả, dai dẳng không dứt.
Tôi lắng nghe có tiếng pháo giao thừa không? Tuyệt nhiên không nghe thấy. Chỉ nghe tiếng giầy nện gót, tiếng cơ bẩm lên đạn, lạnh toát mồ hôi, của các tên cảnh vệ đang tuần tra, chung quanh trại giam.
Những ngày Xuân về, Tết đến, đoàn tù thấy mình bỡ ngỡ, lạc lõng, bơ vơ. Những vết hằn của năm tháng tù tội khốn cùng, những trăn trở của cuộc đời đang kéo về với âm thanh lắng đọng trong một thoáng giây muộn phiền, dẫu xa xôi tôi vẫn ấp ủ trong lòng, rồi nâng niu từng mảnh vỡ của ký ức, nhớ từng khu phố nhỏ khi em tan truờng về, con lộ băng ngang nhà ai, gốc hè với xe nước miá, bụi cây, với hàng hiên cổng kín cao tường, nhớ từng mái ngói phủ rêu xanh, xám xịt, tường quét vôi vàng đậm của đơn vị tôi, với hàng kẽm gai chằng chịt. và nhớ … nhớ em rất nhiều.
Trại tù vẫn có những cơn mưa bất chợt kéo về đây, cũng như trong tâm hồn tôi chợt có những nỗi buồn bất thường. Đêm đêm, xuyên qua khe kẽ hở, tôi tìm đôi mắt ai trong tĩnh lặng, nhắm mắt lại, để giữ nguyên vẹn hình ảnh đó khỏi xóa nhòa trong trí nhớ, và đêm nay, trong giấc ngủ chờn vờn, hồn tôi chết lịm trong cơn mưa của đêm trừ tịch trong trại tù.
Tôi không thể nào ngủ được. Giấc ngủ đến với tôi chờn vờn, tràn đầy ác mộng. Tôi lăn qua trở lại vì cơn đói cồn cào ruột gan và bầy rệp đói túc trực, chờ chực để tấn công trên thân thể gầy đét, xanh xao của nguời tù thiếu máu, đói cơm.
Cũng trong đêm trừ tịch đó, có cái gì nhồn nhột trong lỗ mũi, tôi đưa ngón tay vào chỗ bị ngứa, thì ra là một chú rệp. Tôi bắt hắn, để vào hai đầu ngón tay, bặm môi nghiền nát con vật. Máu đỏ tươi của con rệp dính đầy hai ngón tay, tôi đưa lên mũi ngửi, mùi tanh hôi khó chịu tràn vào lòng phổi nghe rờn rợn. Tôi căm thù loài rệp quỷ quái này. Rệp và các Con Quỷ đỏ miệng!
Nhớ lại một đêm trừ tịch như đêm nay, tôi lặng lẽ đứng trên một ngọn đồi, nhìn những chiếc dù bung ra, treo lửng lơ trên bầu trời tối đen như mực, những trái hỏa châu vàng rực soi sáng cảnh núi đồi thâm u, chung quanh doanh trại.
Hồi đó, tuy có lệnh ngừng bắn, hưu chiến, để hưởng Xuân, nhưng địch vẫn tấn công tiền đồn quan sát của đơn vị tôi đang đóng quân. Những làn đạn bay nối đuôi nhau, ngoằn ngoèo trong bóng đêm, với tiếng gầm thét của phản lực cơ A.37, đang bay vần vũ, yểm trợ cho tiền đồn.
Tôi lịm chết khi nghe tiếng khóc nức nở, nghẹn ngào, với tiếng được, tiếng mất … của Thượng Sĩ Bình, từ tiền đồn báo về: “Trung sĩ Nguyễn văn Tám … đã tử … trận!”
Tôi lặng thinh, tự hỏi: “Sao nguời lính thân thương của tôi, lại bị giặc cướp mất sinh mạng, bỏ lại vợ con, bạn bè, ngậm ngùi, tức tưởi ra đi trong đêm trừ tịch như thế này! Tại sao … và tại sao?!!!


Rồi lòng tôi cảm thấy nuối tiếc, căm thù, dằn vặt tâm tư…
Sáng hôm sau, đúng vào ngày Mùng Một Tết, một thôn nữ còn trẻ đẹp, đầu chít khăn sô trắng cho chồng, anh Trung sĩ vừa bị địch sát hại đêm qua … đêm trừ tịch, để mọi người đón giao thừa.
Hình ảnh của một thiếu phụ đau khổ, nàng điên dại khi mất người yêu trong chiến cuộc. Những hình ảnh đó rất khó quên trong tâm tưởng của tôi, mà nửa phần đời là lính, mà tôi đành phải buông xuôi vũ khí, trốn chạy, để lại một quê hương ngục tù, mà chính tôi, người lính, đã từng quỳ trên đỉnh đồi Tăng Nhơn Phú, với lời thề Tổ Quốc, Danh Dự và Trách nhiệm, mà lời thề vẫn còn gặm nhắm tâm tư tôi, từng phút từng giây…
2/ Tiểu Bang Washington nơi tôi đang cư ngụ, cũng có Tết như những tiểu bang khác. Vào những đêm trừ tịch, tôi cố lắng nghe tiếng pháo giao thừa, nhưng chẳng nghe thấy gì cả. Chỉ có tiếng bà hàng xóm, gọi chồng ơi ới, đi làm ca ba, nghe sao mà lảnh lót trong đêm tàn, át cả tiếng giầy nện gót, nghe cọt kẹt của anh bạn láng giềng, vừa về nhà, sau giờ tan sở. Tuyệt nhiên, không nghe thấy tiếng pháo nổ rền vang, để đón giao thừa.
Dường như có cái gì bất ổn trong lòng tôi. Tôi cố mím chặt môi, nghe mằn mặn ở đầu lưỡi, nước mắt tôi đang lưng tròng, chảy dài trên gò má gầy vì tháng năm ưu phiền, đợi chờ trong vô vọng, thương nhớ Mẹ già, triền miên, da diết.
Khi còn ở quê nhà, tôi thường ngồi trước tách cà phê pha thật đậm khi giao thừa đến, liếm từng giọt đắng trên đầu lưỡi, phì phèo vài điếu Ruby Quân Tiếp Vụ hay một vài tẩu thuốc lào, thả hồn trong điệu kinh nguyện cầu của Mẹ, để đón Xuân về trên đất nước Việt Nam. Tiếng Mẹ trước bàn thờ gia tiên đều đều, dạt dào lời nguyện cầu của Mẹ … “Nam Mô A Di Đà Phật!” Lời nguyện cầu ngàn đời bất diệt, mà âm thanh như chìm xuống vẫn còn lắng sâu trong âm ỷ đã bao giờ mà nay vẫn còn lảng vảng đâu đây.
Nỗi buồn mỗi khi Xuân về, Tết đến! là nỗi buồn ngập nắng, càng nhớ về quê hương, càng thương quê nhà, nhất là nơi đó còn có thân nhân ruột thịt, ông bà, cha mẹ. Nơi đó
còn có vườn hoa, bông cải vàng nở rộ sân. Tôi nhớ những đêm trừ tịch, ngồi bên bếp lửa, châm củi thêm vào lò, mà Mẹ đang nấu bánh tét.
Nỗi buồn còn chất ngất khi mình nhớ tới anh em còn kẹt lại, bị giam cầm trong hỏa ngục của cộng sản.
Mỗi ngày xa quê hương, mỗi khi Xuân về, Tết đến là mỗi phút giây ngơ ngác, muộn phiền tiếp nối với những cơn mê kéo dài.
Sao ở cái xứ sở quạnh hiu, quanh năm tuyết phủ giá băng này, ta không có Cha, có Mẹ, trong lúc Xuân về! Tết Đến! Một thoáng giây tiếc thương ngậm ngùi. Di ảnh của Mẹ, hình hài của Cha, không kịp mang theo trong chuyến hành trình đi xa, như vội vàng bỏ quê hương trốn chạy.
Nhìn lại bệ thờ tổ tiên, thiếu vắng nụ cuời hiền hòa, bao dung của Mẹ. Ánh mắt nhân từ, phúc hậu, rực sáng của Cha, mong đợi ta đem niềm vui trở về.
Mẹ! Một vùng kỷ niệm bỗng nhiên lũ luợt tràn về trong tươi mát nhưng cũng không khỏi vấn vương một chút ngậm ngùi, nghẹn ngào trong tức tưởi vì niềm vui phiêu bạt chưa trọn mà nỗi buồn man mác xâm chiếm tâm hồn tôi với những đêm dài thao thức, khó ngủ gợi cho tôi nhớ đến Mẹ già, mắt trủng, thân gầy, tóc bạc phơ, đang đứng tựa cửa chờ đàn con dại đi lượm xác pháo ở khu phố xa, chưa về.
Mẹ ơi! Nếu giờ này con còn Mẹ, con không bao giờ để cho Mẹ, phải nghĩ ngợi, lấy tiền đâu, để cúng giỗ, tổ tiên, ông bà trong ba ngày Tết.
Khi Mẹ còn sống, chính đời sống nghiệt ngã đã làm khổ Mẹ. Mẹ lao đao, lận đận, mải miết suốt ngày, buôn bán khổ cực, để kiếm tiền nuôi bầy con dại.
Mẹ ơi! Con nhớ Mẹ! Con cũng biết con sẽ mãi mãi không còn được ở bên cạnh Mẹ nữa.
Dường như Mẹ đã không có được một ngày vui nào! Hoặc Mẹ có vui nhưng niềm vui của Mẹ không trọn vẹn.
Mẹ làm việc vất vả suốt ngày, Mẹ lau bàn thờ ông bà, rồi Mẹ lại nấu cơm, rửa chén bát, chùi nền xi măng cho bóng loáng thêm, Mẹ gom quần áo mà các con của Mẹ , vứt bừa bãi trong các hốc kẹt. Mẹ giặt sạch từng vết mực dính trên túi áo. Mẹ kết lại từng hột nút mất khuy.
Công việc của Mẹ không phải chỉ chừng ấy thôi. Có lúc Mẹ tưới mấy chậu hoa hồng … nên lúc nào con cũng thấy Mẹ lăng xăng, bận rộn suốt ngày, mà khi Mẹ nằm xuống, yên nghỉ, thì con lại không được quỳ lạy bên Mẹ.
Ngàn đời con vẫn còn ân hận.
Mẹ tha lỗi bất hiếu của con, nghen Mẹ!
“Cúi lạy Mẹ rộng đường tha thứ
Phận làm con chưa trả nợ biển Đông”
Bỗng nhiên, tôi chợt nhớ ra, đêm nay 30 Âm Lịch, đêm trừ tịch. Một năm cũ sắp trôi qua. Giao thừa sẽ đến. Năm mới lại bắt đầu.
Khai bút đầu năm đi! Con tim tôi réo gọi. Lòng tôi sao mà rộn ràng quá!
Tôi muốn viết lên trang giấy này về Giao Thừa! Về Xuân! Về Tết! Về Đêm Trừ Tịch!
Tìm mãi cho mình nỗi nhớ thương. Muốn ngấu nghiến mà chữ nghĩa lại mù mịt. Lặng thinh. Câm nín. Nạo óc mãi không tìm được hồn văn. Ý tưởng cứ nối vòng bay theo khói thuốc, nghe cô đơn len lén trở về, rã rời.
Buồn đến vỡ con tim!
Chấp cánh cho hồn bay theo từng dòng dĩ vãng. Chập chờn. Quấn quit. Gần gủi và nhớ thương vô vàn. Sao hồn ta bỗng nhiên buồn tênh như một ngày không nắng.
“Mẹ
Có những đêm con chập chờn nhớ Mẹ
Dường như Mẹ về, cúi xuống hôn con
Mẹ mỉm cưôøi khi con còn bỡ ngỡ
Có lẽ nào? Hồn Mẹ đó hay sao? “
Duy Xuyên
Tacoma

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.