NGUYỄN KHẮC NHU
(1882 - 1930)
Nguyễn Khắc Nhu quê tỉnh Bắc Giang. Năm 1912, thi Hương đỗ đầu nên thường gọi là Đầu Xứ Nhu hay Xứ Nhu.
Năm 1903, ông dẫn đường cho Phan Bội Châu đến Phồn Xương để gặp Đề Thám.
Năm 1907, ông làm trưởng nhóm cùng 17 thanh niên tham gia phong trào Đông Du. Sau khi phong trào Đông du và Đông Kinh nghĩa thục bị tan vỡ, Pháp truy nã và bắt giam nhiều chí sĩ. Ông trốn sang Trung Hoa, tham gia vào cuộc vận động cứu nước.
Năm 1927, ông về nước thành lập Hội Việt Nam Dân Quốc. Tổ chức của ông đã nhiều lần đem lực lượng Nghĩa quân tập kích một số đồn Pháp ở Bắc Ninh, Đáp Cầu, Phả Lại...
Năm 1928, ông được Việt Nam Quốc Dân Đảng mời gia nhập, ông giữ nhiệm vụ trưởng ban Lập pháp và Phó chủ tịch Trung ương đảng.
Ngày 9-2-1930, ông chỉ huy trận đánh đồn giặc ở Hưng Hoá và phủ lỵ Lâm Thao, bị trúng đạn ở chân rất nặng, ông dùng lựu đạn tử tiết nhưng không chết, lại bị quân Pháp bắt. Trên đường giải về trại giam, ông nhảy xuống sông tự trầm lại bị quân Pháp vớt được và giải về đồn.
Trên đường giải về đồn, một sĩ quan Pháp hỏi ông vì sao làm loạn. Ông khẳng khái trả lời: “Tôi là người Việt Nam, có bổn phận bảo vệ đất nước Việt Nam. Đó là hợp với lẽ phải và nhân đạo, sao lại bảo là làm loạn?”.
Sau đấy, chúng giam ông tại một đồn ở Hưng Hóa. Ngày 11-2-1930, một lần nữa ông quyết bảo toàn tiết nghĩa, tự đập đầu mình vào lô cốt bằng đá để tuẫn tiết.
Ông là tác giả của một số bài thơ và bài báo, nội dung đấu tranh đăng trên báo An Nam tạp chí. Người ta cảm khái lòng can đảm của ông, điếu ông bằng câu đối:
“Hy sinh vì dân, vì nước, vì nghĩa đảng, không sống cùng lũ giặc.
Bất tử là tiếng, là tâm, là tinh thần, quyết chết khích đồng bào.”
Cảm mộ: Nguyễn Khắc Nhu
Nguyễn Khắc Nhu thương quê tóc tang!
Miệt mài chống Pháp, cứu giang san!
Trung trinh, nhiệt huyết gìn non nước
Tuẫn tiết hào hùng, nghĩa chứa chan!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn