Hôm nay,  

Các chiến lược tăng trưởng nửa vời

21/12/201512:32:00(Xem: 3512)
Các chiến lược tăng trưởng nửa vời

Michael Spence  

Đỗ Kim Thêm dịch

Vào thời điểm tăng trưởng kinh tế ảm đạm, các nước trên thế giới đang cố gắng xây dựng và thực hiện các chiến lược thúc đẩy và duy trì sự phục hồi. Một từ khóa chủ yếu là chiến lược. Để thành công, giới hoạch định chính sách phải đảm bảo thực hiện trong một chương trình toàn diện hợp lý về các biện pháp mở rộng kinh tế, thúc đẩy đầu tư công, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, gia tăng niềm tin nơi thị trường và động lực khích lệ trong việc phân bổ nguồn lực. Chỉ theo đuổi một số trong các mục tiêu này thì rõ ràng là tạo ra các kết quả kém cỏi.

Trung Quốc đem lại một ví dụ đáng nói. Trước khi Đặng Tiểu Bình tung ra chính sách "cải cách và mở cửa" vào năm 1978, Trung Quốc có một mức độ đầu tư tương đối cao trong khu vực công. Nhưng nền kinh tế kế hoạch tập trung thiếu các động lực khích lệ cho thị trường và phần lớn là còn khép kín đối với các thị trường lớn về hàng hóa, đầu tư và công nghệ của nền kinh tế thế giới. Kết quả là mức doanh thu trong lĩnh vực đầu tư công là khiêm tốn nhất, và thành tựu kinh tế của Trung Quốc là bình thường.

Sự chuyển hoá kinh tế của Trung Quốc đã bắt đầu trong những năm của thập niên 1980 với việc du nhập các động lực khích lệ cho thị trường trong  khu vực nông nghiệp. Những cải cách này đã được theo sau là việc mở cửa tuần tự cho nền kinh tế thế giới, một tiến trình đã tăng tốc trong những năm đầu của thập niên 1990. Tăng trưởng kinh tế tăng trước, và mức doanh thu trong đầu tư công tăng cao theo. Ngay sau khi các cuộc cải cách được thực hiện, mức tăng trưởng hàng năm đạt trên 9% của Tổng Sản Lượng Nội Địa.

Chìa khóa cho một chiến lược tăng trưởng thành công là phải đảm bảo cho các chính sách củng cố và tăng cường lẫn nhau. Ví dụ như tăng doanh thu trong lĩnh vực đầu tư công - điểm quan trọng đối với bất kỳ kế hoạch tăng trưởng nào - đòi hỏi các chính sách và các điều kiện bổ sung cho nhau trong các lĩnh vực từ phân bổ các nguồn lực cho đến bối cảnh của thể chế. Xét về tính hiệu quả thì toàn bộ của chính sách sẽ đem lại kết quả nhiều hơn là từng phần của từng chính sách cộng lại.

Tất nhiên, một bảng danh mục tổng hợp cụ thể của các chính sách thay đổi tùy từng giai đoạn phát triển của một nước; những năng động tăng trưởng trong giai đoạn đầu tiên của một nước rõ ràng là có khác khi so với những năng động tăng trưởng của các nước tiên tiến và các nước có mức thu nhập trung bình. Nhưng các điều kiện tiên quyết phải thực hiện là giống nhau. Như một nước đang phát triển, Trung Quc chỉ đạt mức tăng trưởng nhanh chóng khi thực hiện được một chính sách toàn diện, hiện nay các nước tiên tiến đang tranh đấu để khôi phục lại một mô hình tăng trưởng bền vững đã phát hiện rằng toàn bộ chính sách chưa hoàn chỉnh tạo ra mức phục hồi chậm, tiềm năng tăng trưởng và tạo ra việc làm còn ở mức độ thấp.

Chúng ta hãy xét đến các thành quả sau cuộc khủng hoảng của Liên Âu và Hoa Kỳ. Mặc dù cả hai đã có cùng các vấn đề, Hoa Kỳ đang thực hiện tốt hơn một chút (dù Hoa Kỳ vẫn còn phải đối phó với những thách thức lớn trong việc tạo ra việc làm có mức thu nhập trung bình).

Sự khác biệt không phải là Hoa Kỳ đã tung ra một biện pháp vực dậy tài chính tập trung vào đầu tư trong khu vực công; không có loại kích hoạt như vậy được thực hiện, mặc dù nhiều nhà kinh tế, trong đó có tôi, tất cả đều tin rằng biện pháp này sẽ tạo ra một sự hồi phục nhanh hơn và một tình trạng tăng trưởng dài hạn sẽ mạnh hơn. Cũng không có sự khác biệt trong tính hiệu quả thuộc về chính trị lớn hơn; có một thiểu số nói rằng chính phủ Hoa Kỳ hiện nay đang hoạt động tốt, dù đứng trước sự phân hoá trong các đảng phái ngày càng nhiều và bất đồng càng gay gắt về vai trò của chính quyền,

Nền kinh tế Hoa Kỳ đã được hưởng lợi từ hai yếu tố: tính linh hoạt về mặt cấu trúc và tính năng động nhiều hơn so với châu Âu, và việc ủy nhiệm cho Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ rộng lớn hơn, cơ quan này đã theo đuổi một chính sách tiền tệ gây nhiều công hãm hơn khi so với Ngân hàng Trung ương châu Âu. Mặc dù các nhà phân tích nhìn khác nhau về tầm quan trọng tương đối của hai yếu tố này - và thực tế, rất khó mà cân nhắc cả hai - có thể yên tâm mà nói rằng cả hai yếu tố này đóng một vai trò trong việc tạo thuận lợi cho sự phục hồi của Mỹ.

Châu Âu hiện nay đang đặt cược lớn vào sự gia tăng đầu tư trong khu vực công, họ sử dụng việc kết hợp các biện pháp tài trợ cho toàn Liên Âu và các chương trình đầu tư trong từng quốc gia, có lẽ kèm theo sự bổ sung các quy định tài chính của Liên Âu. Đứng trước tình trạng đầu tư chưa đúng mức trong khu vực công là một nguyên nhân phổ biến của mức tăng trưởng dưới trung bình, nên đây là một bước đi đúng hướng.

Nhưng đầu tư công là không đủ. Nếu không có cải cách cấu trúc bổ sung nhằm khuyến khích đầu tư của tư nhân và canh tân - và do đó nó cho phép các nền kinh tế thích ứng và cạnh tranh trong một nền kinh tế toàn cầu do công nghệ làm chủ đạo - thì một chương trình đầu tư công sẽ có một tác động yếu cho tăng trưởng, làm thất vọng. Thay vào đó, dùng nợ đtài trợ cho các chương trình đầu tư công sẽ tạo vực dậy trong ngắn hạn, mà sự bất ổn tài chính (ngân sách) trong dài hạn sẽ là một cái giá phải trả.

Vấn đề là các cải cách cấu trúc có tiếng là rất khó thực hiện. Để bắt đầu, các cải cách này gặp phải đề kháng chính trị do những người thua cuộc trong ngắn hạn, trong đó bao gồm cả các doanh nghiệp và các khu vực do các biện pháp sơ cứng hiện nay bảo hộ. Hơn nữa, để đảm bảo rằng những cải cách như vậy cuối cùng sẽ mang lợi cho tất cả mọi người, người ta phải có một loại văn hóa mạnh mẽ của niềm tin và lòng quyết tâm ngăn chặn mọi sự dàn xếp uyển chuyển hơn để nhằm tạo ra các lạm dụng.

Cuối cùng, các cải cách cấu trúc cần có thời gian để mang lại hiệu ứng. Điều này đặc biệt là đúng trong khu vực dùng tiền euro, - khi các thành viên của khu vực này chấp nhận dùng chung một loại tiền tệ -, họ đã từ bỏ một công cụ quan trọng để thúc đẩy cho tiến trình, đó là các biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái cho phù hợp trong các nền kinh tế có các mức độ năng suất khác nhau.

Mario Draghi, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Liên Âu, mới đây đã lập luận là vì do các chính sách làm chậm tăng trưởng của từng nước thành viên trong khối Liên Âu có tác động ngoại vi tiêu cực có lẽ các nước này không nên có một quyền kiểm soát vô giới hạn trong một vài lĩnh vực nhất định của chính sách. Dù thẩm quyền giám sát tài chính của các nước thành viên đã bị giới hạn thông qua sự tập trung của các quy định về luật ngân hàng và cơ chế về nghị quyết, đề xuất của Draghi có hiệu ứng sâu rộng hơn.

Người ta tự hỏi nếu đề nghị của Draghi có khả thi về mặt chính trị trong bối cảnh Liên Âu không. Ngay cả khi nếu có, liệu có cần thiết không? Các nền kinh tế có các đơn vị nhỏ mà nó thay đổi một cách đáng kể về các mặt hiệu quả kinh tế, mức tăng trưởng và tính năng động. Thật vậy, sự khác biệt trong phm chất của việc điều hướng và các chính sách dường như còn kéo dài, ngay cả khi mà các nền kinh tế thực hiện khá tốt trong tổng thể.

Có lẽ một phần trong câu trả lời là phải ngăn chặn các đơn vị nhỏ đang làm trì trệ về các cải cách - trong trường hợp của Liên Âu đó là các nước thành viên – Nhưng tập trung hoá phải trả bằng một cái giá của nó.

Đứng trước những rủi ro cố hữu trong cuộc đua để đạt đến một tình trạng đồng thuận về chính sách, việc chuyển dịch lao động - mà cả hai tạo điều kiện cho vốn con người có giá trị hơn, đặc biệt nhất là giới trẻ có được giáo dục tốt, cho phép họ rời khỏi các vùng tụt hậu để đến những nơi có các cơ hội tìm việc làm tốt hơn và nhiều hơn - đây có thể chứng minh là một công cụ quan trọng cần điều chỉnh.

Hiện nay, tình trạng chuyển dịch lao động chưa thực hiện tốt trong Liên Âu. Nhưng, với huấn luyện về ngôn ngữ và thực hiện một cái gì đó giống như “Chiến lược Lisbon cho Tăng trưởng và Nhân dụng“ (trong đó nhằm tạo ra một "nền kinh tế liên tục học hỏi" đầy sáng tạo, nó dựa trên một nền tảng của chính sách môi trường và đoàn kết xã hội), mức di động có thể được nâng cao.

Nhưng mức chuyển dịch lao động càng nhiều hơn không phải là một loại thuốc để chữa bách bệnh. Khi có các yếu tố khác của một chiến lược tăng trưởng, nỗ lực đẩy mạnh hỗ tương là cách duy nhất để đạt được thành công. Có được nửa ổ bánh mì còn tốt hơn là không có, nhưng có một nửa các thành phần gia vị không thể tạo ra một nửa kết quả hằng mơ ước.

  ***

Michael Spence đoạt giải Nobel vê Kinh tế, Giáo Sư Kinh Tế học của NYU Stern School of Business và là tác giả The Next Convergence – The Future of Economic Growth in a Multispeed World.

Nguyên tác: Haft-a Loaf Growth

http://www.project-syndicate.org/commentary/economic-growth-strategies-by-michael-spence-2015-01




.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nelson Mandela (1918-2013), quán quân Giải Nobel Hòa Bình năm 1993, nhà hoạt động chống chế độ phân biệt chủng tộc bị tù 27 năm, và là vị tổng thống người da đen đầu tiên được bầu trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của nước Nam Phi vào năm 1994, đã từng nói rằng, “Giáo dục là vũ khí có sức mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” Hơn ai hết, Nelson Mandela là người không những hiểu rõ giá trị thực sự của nền giáo dục mà còn áp dụng kiến thức đó trong việc làm thay đổi đất nước và dân tộc Nam Phi của ông. Ông đã dẫn dắt Nam Phi từ một quốc gia ngập chìm trong bóng tối của thù hận, phân hóa và lạc hậu để vươn mình lên trong ánh sáng của đoàn kết, hòa bình và phát triển.
Hoa Kỳ đã tấn công Iran. Chỉ vài ngày sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump gợi ý rằng có thể trì hoãn bất kỳ hành động quân sự nào của Mỹ trong nhiều tuần, ông tuyên bố vào ngày 21/6 rằng máy bay Mỹ đã tấn công ba địa điểm hạt nhân của Iran, bao gồm cả cơ sở bị chôn sâu ở Fordow. Các quan chức Iran xác nhận rằng các cuộc không kích đã diễn ra. Mặc dù ông Trump khẳng định rằng các địa điểm này đã bị "xóa sổ", nhưng vẫn chưa rõ các cuộc tấn công đã gây ra thiệt hại gì.
Jena, Louisiana – một thị trấn 4.000 dân lọt thỏm giữa rừng thông – nơi bảng hiệu đầu làng ca ngợi đội bóng nữ vô địch của bang, nhưng cách đó chỉ ba dặm, sau hàng rào kẽm gai và lời Kinh Thánh treo lủng lẳng, là Trại Giam ICE đồ sộ - do GEO Group điều hành. Nơi đây hiện giam giữ hơn 1000 người – phần lớn chưa từng bị kết tội hình sự, nhiều người chỉ là dân đang xin tị nạn hợp pháp, số còn lại chưa kịp hiểu vì sao mình bị bắt...
Tại sao Trump lại vội vàng ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và chính sách mới như vậy?AI: Có hai lý do.Đầu tiên, tổng thống vội vàng vì nếu có bất kỳ điều gì sai trái xảy ra vào đầu nhiệm kỳ, ông có thể đổ lỗi cho chính quyền trước và nhà nước (những người làm việc cho ông). Nếu để lâu, những điều sai trái sẽ là trách nhiệm của ông, và Trump không thích chịu trách nhiệm.Thứ hai, ông biết trong hai năm nữa, đảng Cộng hòa sẽ mất quyền kiểm soát Hạ viện trong cuộc bầu cử quốc hội và ông sẽ trở thành què quặt. Ông cần phải hoàn thành mọi việc ngay bây giờ. Ông muốn tập trung vào các doanh nghiệp của mình trong hai năm cuối nhiệm kỳ tổng thống,
Bao dung – một từ nghe thật thanh thoát. Âm tiết của nó cũng thật bình dị, thốt ra từ thanh quản nhẹ nhàng không cần uốn nắn, như cỏ mọc từ đất, như mưa từ trời. Vậy mà ngày nay, trong một xã hội đứng đầu thế giới về tự do, về quyền con người, hai từ “bao dung” bỗng dưng khó tìm. Chính trong tháng Sáu này, tháng gọi là Pride Month, những câu chuyện thương tâm về cộng đồng LGBTQ+ bị chìm trong bóng tối. Có lẽ trong sáu tháng qua, nước Mỹ có quá nhiều những phát ngôn, biến cố, thay đổi mà đối với truyền thông, đó là điều cần phải nói, và nói mỗi ngày. Hoặc cũng có lẽ, trong một chính quyền đang nỗ lực bác bỏ DEI, đóng chặt cửa với di dân, thì truyền thông cũng không dám đào sâu về những gì thuộc về cộng đồng yếu thế. Cho dù, đó là một án mạng lấy đi cuộc sống một con người, hoặc chấm dứt những nguyên tắc vốn đã được nhìn nhận hàng thập kỷ.
“Nơi nào người ta bắt đầu đốt sách, nơi đó người ta rồi cũng sẽ thiêu người.”— Heinrich Heine. Câu nói nổi tiếng từ thế kỷ XIX của thi sĩ Heinrich Heine, tưởng chỉ là tiếng vọng u ám của bóng ma lịch sử nhưng hôm nay, giữa thế kỷ XXI, lời cảnh báo ấy lại trở nên rúng động – ngay trên đất nước từng được xem là ngọn hải đăng của tự do học thuật. Oái oăm thay, những dấu hiệu đầu tiên của bóng tối không phát xuất từ một chế độ độc tài phương Đông, mà từ chính nước Mỹ – xứ sở từng được xem là ngọn hải đăng của giáo dục tự do.
Donald Trump không đội vương miện, nhưng ông đã luyện được cách bắt cả một đảng chính trị quỳ gối. Và cũng như các ông vua cổ đại, ông không cần luật – ông chính là luật. Nếu Toà Tối cao chống đối, ông sẽ gọi đó là “phản quốc.” Nếu truyền thông phản biện, ông gọi đó là “tin giả.” Nếu có cuộc bầu cử mà ông thua, ông sẽ bảo đó là “gian lận.” Và nếu có ai dám nói điều gì khác, ông sẽ gửi quân đội tới – như ông đã làm ở Los Angeles, để dạy cho đám biểu tình “hỗn xược” ấy một bài học về dân chủ... bằng đạn cao su và lựu đạn cay.
Ryanne Mena là một nhà báo đưa tin về tội phạm và an toàn công cộng cho Southern California News Group. Thứ Sáu, 6/6, ngày đầu tiên diễn ra cuộc biểu tình phản đối chính sách nhập cư của chính quyền Trump, chống lại các cuộc bố ráp của Cảnh Sát Di Trú (ICE), Mena đã có mặt ngay trên đường phố Los Angeles, bên ngoài Trung tâm giam giữ Metropolitan,L.A. Tại đây, cô bị trúng đạn hơi cay ở đùi bên trái Ngày kế tiếp, nữ phóng viên này bị trúng đạn cao su của các đặc vụ liên bang bắn vào đầu, bên phải, cách tai của cô chỉ khoảng 1 inch. Những tấm ảnh Mena và các đồng nghiệp khác bị thương lan tỏa khắp Instagram, Twitter.
Giữa lúc Tòa Bạch Ốc đang tìm mọi cách cứu vớt mối quan hệ Trump-Musk thì các cựu quan chức an ninh y tế cho biết chính quyền Trump hủy bỏ $766 triệu trong các hợp đồng nghiên cứu phát triển vaccine mRNA để chống lại các loại đại dịch cúm. Với họ, đây là đòn giáng mới nhất vào quốc phòng quốc gia. Họ cảnh báo rằng Hoa Kỳ có thể phải nhờ đến lòng trắc ẩn của các quốc gia khác trong đại dịch tiếp theo. ABC News dẫn lời Beth Cameron, cố vấn cao cấp của Trung tâm Đại dịch thuộc Brown University Pandemic Center, và là cựu giám đốc Hội đồng an ninh quốc gia Tòa Bạch Ốc, cho biết: “Các hành động của chính quyền đang làm suy yếu khả năng phòng ngừa của chúng ta đối với các mối đe dọa sinh học. Việc hủy bỏ khoản đầu tư này là một tín hiệu cho thấy chúng ta đang thay đổi lập trường về công tác chuẩn bị ứng phó với đại dịch. Và điều đó không tốt cho người dân Mỹ.”
Ăn mặc đẹp là nói về thời trang. Lịch sử “thời trang cao cấp” thuộc về truyền thống của Pháp: Haute couture từ thế kỷ 17. Đến thế kỷ 19, ngành thời trang cao cấp đã phát triển thành một phương tiện kích thích tăng trưởng trong nền kinh tế Pháp. Trong thời gian này, các nhà tạo mốt như Dior, Chanel và Balenciaga đã được thành lập. Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, ngành thời trang cao cấp ở Pháp đã mất đi phần lớn sự huyền bí của mình và phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các thị trường quốc tế khác, đặc biệt là ở Ý và Hoa Kỳ. Sự thành công của bối cảnh thời trang quốc tế và tiềm năng lợi nhuận đã thu hút sự chú ý của các tập đoàn hàng xa xỉ, được tiên phong bởi ông trùm kinh doanh người Pháp và người sáng lập LVMH Bernard Arnault vào năm 1987. Ngày nay, các tập đoàn này vẫn tiếp tục duy trì hoạt động lịch sử của các nhà thời trang xa xỉ thông qua việc bổ nhiệm các giám đốc sáng tạo, những người diễn giải và chỉ đạo triết lý thiết kế của thương hiệu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.