Hôm nay,  

Thi Sĩ Của Tình Yêu Vô Thức

31/12/201400:00:00(Xem: 5817)
  • Tác giả :

Thơ ơi, dẫu cạn ý lời
Không sao tường tỏ lòng vơi dạ đầy
Chông đèn thử hỏi trăng sao
Tạ ơn thơ hiểu ước ao dại khờ
Dù khi vật đổi sao dời
Xin thơ giữ lại một đời vương tơ
(Nói với thơ Ngô Tịnh Yên – T.H.)

Tôi bắt đầu viết về người phụ nữ có tên gọi Ngô Tịnh Yên bằng câu chuyện nhỏ được chị chia sẻ lúc tôi gọi chị chúc mừng Giáng Sinh. Để nói đôi lời giới thiệu ngắn gọn trong ít phút về ca khúc “Nếu Có Yêu Tôi”, nhạc sĩ Trần Duy Đức phổ từ bài thơ cùng tên, chị đã tập nói nhiều lần để có thể diễn đạt trôi chảy lúc thu hình cho một chương trình nhạc có những nghệ sĩ khuyết tật tham gia. May mắn nhờ Tổ phù hộ, chị đã làm được trọn vẹn vai trò tác giả của những vần điệu thiết tha tiếng gọi nức lòng:

“Đừng đợi ngày mai đến khi tôi thành mây khói
Cát bụi làm sao còn biết mỉm cười”

Nếu chưa đọc thơ Ngô Tịnh Yên mà chỉ tiếp xúc với chị thì ít ai có thể hình dung được: trú ẩn trong dáng người nhỏ nhắn của chị là một tâm hồn rộng lớn bao la. Tôi biết đến tên Ngô Tịnh Yên lần đầu qua một bài báo viết về buổi ra mắt cuốn ký sự Cam Bốt “Thiên Thần Trong Địa Ngục” của chị. Nhờ vậy tôi được biết chị đã một thân một mình lặn lội sang tận xứ chùa tháp để tìm hiểu về thực trạng buôn bán trẻ em làm nô lệ tình dục. Sau đó tôi mới bắt đầu biết đến những bài thơ của chị.

“Lãng Mạn Năm 2000” là tập thơ lục bát của Ngô Tịnh Yên mà tôi được cầm trên tay cách đây tròn bốn năm, lật từng trang, đọc từng bài. Điều tôi xin dành để nói về thơ Ngô Tịnh Yên trong bài viết này chính là tấm chân tình sống mãi trong tình yêu của tác giả. Con người ta khi yêu thì ai cũng có những biểu hiện, cử chỉ và ý nghĩ chân thành dành cho đối tượng của mình, nhưng sự thể hiện ấy ở mỗi người thì chẳng ai giống ai.

Thơ tình Ngô Tịnh Yên không làm tôi khóc sướt mướt hay bi lụy vì cảm xúc nhất thời trào dâng trong chốc lát. Thơ tình Ngô Tịnh Yên ở lại trong tâm khảm tôi như những hạt mưa buồn vô cớ tích tụ ngày qua tháng lại thành mùa đông triền miên giá buốt. Nhờ vào sự chân-tình-từ-tâm-trí của người làm thơ mà những vần thơ Ngô Tịnh Yên làm đêm đông ấm áp, làm tình yêu hiện hữu, và làm cuộc đời tươi sáng. Tựa như thiên chức của người làm mẹ - một mình vượt cạn sinh con và khó nhọc nuôi con thành người, mỗi một bài thơ của Ngô Tịnh Yên, dù là lời trách móc, dù là sự giận hờn, hay là lời nhắn nhủ sau cùng thì tất cả cũng đều mang theo trong mình tấm lòng tận tụy với tình yêu thương quên đi bản thân mình:

“Suốt mùa đông tôi làm người nhóm lửa
Để cuộc đời ấm mãi cõi lòng nhau...”

Tôi ít hiểu biết về quy luật gieo vần chọn chữ trong thơ. Tôi cảm nhận thơ Ngô Tịnh Yên như một người đang yêu ngẩn ngơ đón nhận lời tỏ tình giản dị mà chân thành từ thơ của chị. Đó là một sự chân thành hiếm thấy giống như câu chuyện tình lãng mạn được kể lại qua bộ phim nhựa “Notting Hill”. Những bài thơ tình Ngô Tịnh Yên được mọi người biết đến, đón nhận và yêu thích từ lâu. Tôi nhắc lại mong giải bày về sự chân thành trong tình yêu mà tôi may mắn nhận được từ thơ của chị.

blank
Thị sĩ Ngô Tịnh Yên ngồi ký tên.

Tôi xin được ví von thơ tình Ngô Tịnh Yên tuyệt đẹp như nhân vật nữ chính trong bộ phim “Notting Hill”. Cô là diễn viên nổi tiếng của kinh đô điện ảnh Hollywood, đến một thị trấn nhỏ xa xôi ở nước Anh để quay phim, rồi tình cờ gặp và phải lòng anh chàng chủ tiệm bán sách vô danh. Chuyện tình của hai người có địa vị xã hội không tương xứng nhau tưởng chừng sẽ không có một kết thúc tốt đẹp vì danh tiếng của người con gái làm người con trai rơi vào tình huống dễ nảy sinh mặc cảm tự ti, hiểu lầm rồi đành chấp nhận tình yêu ấy là mộng tưởng ngắn ngủi thoáng qua trong đời. Đâu ai ngờ có một hôm người con gái có sự nghiệp diễn viên lừng lẫy ấy mặc bộ quần áo giản dị, mang chiếc túi xách bình thường, lặng lẽ bước vào tiệm sách như bao người tìm mua sách khác. Cô ấy đến không phải để mua cho mình một cuốn tiểu thuyết được xuất bản nhiều lần mà đến để dành tặng cho chàng trai chủ tiệm sách tấm chân tình đơn sơ của mình. Cô không màng đến địa vị xã hội của người nổi tiếng, chẳng bận lòng đến áp lực từ giới truyền thông. Cô tự tin mở cánh cửa nhỏ của tiệm sách, đối diện với chàng chủ tiệm sách cũng có nụ cười hiền lành như cô, chỉ để nói rằng: “Em chỉ là một người con gái, đang đứng trước anh, mong anh hãy yêu em…” (“Im just a girl, standing in front of a boy, asking you to love me…”). Sự chân thành có đủ sức mạnh vượt qua mọi giới hạn cuộc đời ở nơi thơ tình của Ngô Tịnh Yên cũng là vậy đó. Tôi chẳng biết mình có bao giờ gặp được duyên may một lần trong đời được làm người chủ tiệm sách đứng trước Nàng thơ của Ngô Tịnh Yên, được đón nhận tấm-chân-tình-từ-tâm-trí? Nhưng, từ lâu rồi, tôi đã cảm nhận được điều quý giá đó ở nơi tâm hồn dạt dào tình yêu thương của chị.

Nói đến kim cương, ai cũng sẽ nghĩ ngay đến vẻ đẹp lộng lẫy nhiều sắc màu khó gì sánh kịp. Mặc dù vậy, đó vẫn là giá trị vật chất hữu hình dễ thấy, dễ tìm và dễ nhận. Thơ tình Ngô Tịnh Yên trong ánh mắt tôi cũng là một viên kim cương, nhưng viên kim cương ấy lấp lánh chỉ duy nhất một sắc màu mà sắc màu ấy thì các mỏ kim cương nằm sâu hun hút trong lòng đất không thể nào tích tạo được. Tôi gọi đó là sắc màu chân-tình-từ-tâm-trí. Tôi đã trót đọc thơ Ngô Tịnh Yên, trót yêu sự chân tình ấy thì cho đến ngày mắt tôi tịnh yên nhắm lại, tôi vẫn còn ấp ủ trong tim “Điều Ước Cuối Cùng” của chị:

“Yêu người trong bão khôn nguôi
Để yêu đời lúc nắng nôi trở trời
Giữa cơn vật đổi sao dời
Xin còn khoảng trống để ngồi bên nhau”

Có một người từng cười nhẹ nói với mình tôi rằng: “Sao mà khùng vậy...?” Có nhiều người khác đã, đang và có lẽ sẽ bảo tôi: “Làm gì có tình yêu hoàn toàn tuyệt đối trên đời? Sống lãng mạn bay bổng như vậy là chịu thiệt thôi!” Tôi tự hỏi lòng mình, thế nào là “chịu thiệt”, thế nào là không? Vậy thì thử đọc “Lý Do Yêu” của Ngô Tịnh Yên:

“Tại sao còn hỏi làm chi?
Khi trời khóc cũng chỉ vì đất thôi”

Giọt mưa tuôn rơi từ bầu trời xa thẳm nếu không có mặt đất hứng lấy, giữ lại, thì làm sao vạn vật sinh sôi nảy nở, cây cối tốt tươi. Bầu trời mênh mông trên cao chẳng bao giờ chạm được vào mặt đất dù chỉ một lần, nhưng lúc nào mây trắng cũng nhìn thấy cây xanh, nghe thấy tiếng chim hót véo von thì vẫn mãn nguyện biết được rằng, nước mắt của mình là chưa bao giờ uổng phí. Tình yêu chân thật cũng vậy, suy cho tận cho cùng, thì chẳng có gì là thiệt-hơn, được-mất hay đúng-sai.

Lúc một mình đọc lại thơ tình Ngô Tịnh Yên, tôi mỉm cười với ý nghĩ rằng, nếu mình có đủ phước phần được tái sinh làm người, lúc đi qua cầu Nại Hà, phải uống chén canh Bà Mụ để quên đi tất cả những gì thuộc về đời kiếp này trước khi được đầu thai làm người ở kiếp khác, tôi sẽ khẩn nguyện xin Mẹ hiền Quan Thế Âm đại từ đại bi cho tôi được mang theo một vài câu thơ Ngô Tịnh Yên. Tôi sẽ nhờ thơ để có thể tìm gặp lại người hỏi tôi “sao mà khùng vậy?”, để được nói với người đó bằng sự chân tình như chính hai câu kết trong bài lục bát “Trú Giữa Lòng Nhau”:

“Mốt mai sóng dậy ba đào
Xin về trú giữa lòng nhau cuối đời”

Tôi xin kể lại một kỷ niệm nhỏ với bài thơ “Tắm Mưa” của Ngô Tịnh Yên. Lúc đọc đến bài này trong tập thơ “Lãng Mạn Năm 2000”, tôi cứ cảm thấy hình như có một điều gì đó chưa trọn vẹn, chưa thông suốt. Quả tình là vậy, câu thơ thứ mười thiếu mất một chữ. Tôi liên lạc với tác giả và được biết chữ đó là chữ “sâu”, bị thiếu mất do lỗi in ấn. Chị có nói đùa với tôi một cách dí dỏm thế này: “Chắc là vì sâu quá nên chữ này lọt mất tiêu đó em!” Từ ý nghĩa ý nhị của lời nói đùa ấy, về sau lúc đọc thêm thơ Ngô Tịnh Yên, tôi ngẫm nghĩ thì thấy có nguyên cớ ở chữ “sâu”. Mọi sự trên cuộc đời khi chiêm nghiệm lại cũng đều là một chữ duyên. Tôi có được sự cảm ngộ từ tấm chân tình kết tinh trong thơ Ngô Tịnh Yên cũng là một chữ duyên. Xin phép tác giả cho tôi được trích nguyên văn bài “Tắm Mưa” mà tôi nhớ thật nhiều, một phần có lẽ cũng do mối duyên-sâu:

“Tắm mưa nhông nhông ở truồng
Thả chiếc thuyền giấy theo luồng nước trôi
Chở theo mộng mị xa xôi
Chuyện thần tiên của hai người bé con
Chỉ biết vui chẳng biết buồn
Tung tăng những buổi mưa tuôn từ trời...
Hai mươi năm mưa vẫn rơi
Nhưng chiếc thuyền giấy và người xưa đâu?
Tan theo những giọt mưa ngâu
Hay chìm trong bão sông sâu dòng đời
Mưa giăng dưới lũng trên đồi
Nhớ mưa ai tắm cùng tôi thuở nào?”

Kỷ niệm tắm mưa từ thời ấu thơ được tác giả kể lại bằng vần điệu lục bát mượt mà, từ ngữ súc tích và ý tứ sâu xa đến vậy thì có người đọc thơ nào mà không cảm thấy lòng bâng khuâng, dạ bồi hồi? Tôi biết ơn tấm chân tình trĩu nặng như hạt mưa buồn tuôn rơi từ bầu trời cao vời vợi. Cũng như bao người khác, tôi từng đi qua một thời vô tư, chỉ biết “tung tăng những buổi mưa tuôn từ trời...” Tôi đâu có biết có ngày mình sẽ “tan theo những giọt mưa ngâu - hay chìm trong bão sông sâu dòng đời”? Có ai từng một lần đặt chân đến vùng đất dãi dầu mưa nắng ở quê tôi vào mùa lũ lụt thì mới thấm thía nỗi niềm của những hạt mưa tuôn. Bởi vậy, suốt gần hai mươi năm đầu đời, tôi có nhiều kỷ niệm với mưa. Không biết tự bao giờ, tôi đã đem lòng yêu mưa một cách vô thức, thương mưa không chút đắn đo và nặng tình nặng nghĩa với mưa suốt đời.

blank
Tranh Ngô Tịnh Yên do một người chị vẽ.

Trong dự cảm của tôi lúc đọc câu thơ thứ mười của bài “Tắm Mưa”, tôi cứ thấy có điều gì đó thiếu thiếu. Tôi có duyên được chính tác giả nói về chữ “sâu” bị thiếu sót so với nguyên bản. Vậy là cảm nhận về tấm chân tình nhẹ như mây gió mà mênh mông tựa biển cả trong thơ Ngô Tịnh Yên lại trở về với hình hài vẹn nguyên trong tôi. Nếu hỏi Ngô Tịnh Yên về vẻ đẹp của tình yêu trong một cuộc chuyện trò hay một buổi phỏng vấn truyền hình thì câu trả lời của chị sẽ mộc mạc như lời nhân vật nữ chính trong bộ phim “Notting Hill”. Cô ấy quên đi tất cả - danh vọng, địa vị xã hội và những thứ tự hình thức khác bị con người phủ choàng chiếc áo vô minh - để nói lời chân tình tận đáy lòng: “Em chỉ là một người con gái, đang đứng trước anh, mong anh hãy yêu em”. Ngô Tịnh Yên là vậy đó, lời nói giản dị, có khi câu chữ được chị nói chưa lưu loát, chưa tròn đầy, có sao nói vậy, nhưng thơ của chị thì sâu lắng tựa như vô số hạt mưa tuôn ngày qua tháng lại tịnh yên tích tụ trong lòng đất, tạo nên phần sinh lực không thể thiếu để nuôi dưỡng sinh linh vạn vật.

Tình yêu trong thi ca của Ngô Tịnh Yên là tình yêu của một tấm chân tình có thật từ tâm trí, chảy khắp huyết mạch cơ thể và đi qua mọi cách trở cuộc đời. Chẳng thế mà chị kết thúc một đoạn ân tình “Phiến Loạn” bằng lời-chân-tình bất phục nhưng lại ngụ ý phủ phục:

“Bên nhau có xử lăng trì
Con tim phiến loạn vẫn lì đòn yêu”

Những tưởng khi đặt tựa đề một bài thơ khác là “Trả Tình Cho Yêu”, Ngô Tịnh Yên dứt khoát “trả” hết, nhưng đến hai câu kết, chị lại bằng lòng tự nguyện trút hết tâm cang “trả” thơ về với niềm yêu sau cùng sao cho toàn vẹn như thuở ban đầu:

“Qua nhau tạo hóa lá lay
Qua đời nắm cỏ xanh đầy trong tim”

Không hiểu sao tôi lại thích được thủ thỉ một mình với những câu kết trong thơ Ngô Tịnh Yên, như trong bài “Lưu Niệm” chẳng hạn:

“Gởi nhau thơ nát từng dòng
Ngâm câu tình nghĩa ngực chùng dạ đau”

Con người ta khi không nói được bằng lời thì sẽ tìm cách biểu đạt qua thơ. Ngô Tịnh Yên không những tâm tình bằng thơ, thơ hay nữa là khác, mà còn trao hết cho cuộc đời cả một tấm chân tình được chắt chiu thành “nỗi buồn - đậu hoài trên mái tóc”. Xin hãy áp hai lòng bàn tay lại với nhau, lặng im chỉ trong một tích tắc để lắng nghe “Những Gì Tôi Có” của Ngô Tịnh Yên:

“Tôi có một nỗi nhớ
ngự trị mãi trong lòng
tôi có một hơi thở
biết cho và đợi mong”

Đó cũng là một đoạn kết “xin còn khoảng trống để ngồi bên nhau” khác của Ngô Tịnh Yên. Còn mấy ngày nữa là năm cũ qua đi, năm mới lại về. Giây phút giao mùa chưa đến mà lòng tôi đã thấy quyến luyến đậm đà như đang đi qua một-giây-một-phút cách xa mất rồi. Tôi mừng mừng tủi tủi đọc lại thơ của chị. Mừng là vì tôi đã có duyên tìm thấy chữ “sâu” từ hạt mưa tuôn. Tủi là bởi tấm chân tình trong thơ Ngô Tịnh Yên sao mà buồn sâu đến vậy…

Trong sự đồng cảm của người đọc thơ dành cho người rút ruột làm thơ, tôi xin được gọi Ngô Tịnh Yên là thi-sĩ-của-tình-yêu-vô-thức. Nếu tình cờ đọc được đâu đó một hai câu thơ hoặc cả một bài thơ của Ngô Tịnh Yên - có khi là sự giận dỗi, có lúc là lời kể tội hay thậm chí là ý muốn chấm dứt - thì chúng ta hãy đừng tin vào những câu chữ ấy. Nếu đọc tiếp một hồi hay đọc đi đọc lại thơ Ngô Tịnh Yên thì chúng ta sẽ thấy tấm chân tình của chị hiển lộ một cách vô thức, như ở hai câu kết của “Sự Thật”:

“Mình đâu lừa dối được nhau
Khi đuôi mắt ướt dấu sao được tình?”

Tôi xin chân thành dành lời chúc năm mới an lành gửi đến thi sĩ Ngô Tịnh Yên bằng chính hai câu kết trong bài lục bát mở đầu thi phẩm “Lãng Mạn Năm 2000” của chị:

“Gánh thơ qua những chợ đời
Gánh xong hết một kiếp rồi...tịnh yên!”

“Ngô Tịnh Yên”, tôi muốn gọi thêm lần nữa, thêm lần nữa, bút danh của một tấm chân tình cả đời tận tụy vì thơ. Chị đúng là thi-sĩ-của-tình-yêu-vô-thức trong mỗi giấc ngủ yêu thương và sớm mai yên bình suốt phần đời còn lại của tôi…

T.H.
(Một đêm Đông cuối năm 2014)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.