TOKYO - Lần đầu tiên từ khi hồ sơ theo dõi đuợc thiết lập, năm 1955, dân Nhật giảm tiết kiệm cùng với tỉ lệ tiết kiệm xuống thang – tỉ lệ tiết kiệm trung bình hiện nay là âm 1.3%.
Đó là 1 thay đổi đầy kịch tính: vào lúc cao điểm, năm 1975, tỉ lệ tiết kiệm của người Nhật là 23.1%.
Nhật là nước có tỉ lệ thiết kiệm cao nhất trong tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) trong thập niên 1960 cho tới khi khả năng tiết kiệm hạ xuống mức thấp nhất với dân số lão hoá nhanh nhất và dân số giảm sút trong 1 thập niên qua.
Đây cũng là 1 yếu tố ảnh hưởng chính sách kinh tế Abenomics của Thủ Tướng đuơng quyền – trong lúc tranh cử, Thủ Tướng Abe hưá hẹn tăng luơng, phát triển việc làm, đẩy lui giảm phát. Nhưng, trong tháng qua, lợi tức đã điều chỉnh theo lạm phát giảm 4.3% so với cùng kỳ năm trước, là giảm 17 tháng liên tiếp và giảm nhiều nhất từ sau suy thoái 2009.
Các gia đình giảm mua sắm, là không gây ngạc nhiên, giảm trung bình 2.5%, giảm 8 lần liên tiếp, là không giúp kích thích nhu cầu tiêu thụ và hỗ trợ giá cả. Đó là những dữ liệu khó khăn với Abenomics.
Đó là 1 thay đổi đầy kịch tính: vào lúc cao điểm, năm 1975, tỉ lệ tiết kiệm của người Nhật là 23.1%.
Nhật là nước có tỉ lệ thiết kiệm cao nhất trong tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) trong thập niên 1960 cho tới khi khả năng tiết kiệm hạ xuống mức thấp nhất với dân số lão hoá nhanh nhất và dân số giảm sút trong 1 thập niên qua.
Đây cũng là 1 yếu tố ảnh hưởng chính sách kinh tế Abenomics của Thủ Tướng đuơng quyền – trong lúc tranh cử, Thủ Tướng Abe hưá hẹn tăng luơng, phát triển việc làm, đẩy lui giảm phát. Nhưng, trong tháng qua, lợi tức đã điều chỉnh theo lạm phát giảm 4.3% so với cùng kỳ năm trước, là giảm 17 tháng liên tiếp và giảm nhiều nhất từ sau suy thoái 2009.
Các gia đình giảm mua sắm, là không gây ngạc nhiên, giảm trung bình 2.5%, giảm 8 lần liên tiếp, là không giúp kích thích nhu cầu tiêu thụ và hỗ trợ giá cả. Đó là những dữ liệu khó khăn với Abenomics.
Gửi ý kiến của bạn