Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Đánh Và Đàm

17/05/200800:00:00(Xem: 9880)

Nhưng đánh ai và đàm cái gì" Nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Quốc gia Israel, hôm Thứ Năm 15, Tổng thống George W. Bush đọc một bài diễn văn trước Quốc hội Israel để chào mừng dân Do Thái. Bài diễn văn lập tức được Nghị sĩ Barack Obama khai thác ở nhà cho nhu cầu tranh cử.

Trong bài diễn văn tại Jerusalem, ông Bush nhắc tới kinh nghiệm lịch sử tại Âu châu - khi người ta nhượng bộ chế độ Đức quốc xã của Hitler và gây ra thảm kịch sau đó - để khẳng định rằng không thể đàm phán thương thảo với quân khủng bố hay các chế độ hung đồ. Ông còn nhắc tới lời phát biểu của một Nghị sĩ thời ấy, khi quân phát xít Đức tấn công Ba Lan năm 1939, rằng "Lạy Chúa, phải chi mà tôi được nói chuyện với Hitler thì có lẽ mình đã có thể tránh được những chuyện này!"

Ban tranh cử của Obama bắt lấy lời phát biểu ấy để tri hô rằng ông Bush ám chỉ lập trường thương thảo của Obama. Hôm sau, Nghị sĩ này còn nhấn tới và đả kích cả chính quyền Bush với Nghị sĩ McCain. Chúng ta có thể kết luận rằng Obama tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, bất cứ ai nói gì cũng có thể bị xuyên tạc thành lời đả kích cá nhân ông. Cần thiết trong tranh cử, mà rất non! Ôbama rất vần với Ô Ba Hoa và ô hô ai tai.

Xin đi lại từ đầu trước khi đi vội về sau.

Trong bài diễn văn tại Israel, ông Bush nhắc tới lập trường của một Nghị sĩ Hoa Kỳ. Nếu chịu khó quên mình một chút để tham khảo lịch sử, Obama phải biết Nghị sĩ đó là William Edgar Borah của tiểu bang Idaho. Ông Borah này không là một chính khách Dân Chủ, mà thuộc xu hướng cấp tiến của đảng Cộng Hoà và chủ trương "tự cô lập", tương tự như Dân biểu Ron Paul ngày nay của đảng Cộng Hoà. Borah cho rằng Hoa Kỳ không nên can thiệp vào chuyện thiên hạ mà chỉ nên bảo vệ quyền lợi của mình. Hai chục năm trước, vào năm 1919, ông Borah này là người phá hoại kế hoạch thành lập Hội Quốc liên của Tổng thống Woodrow Wilson. Cũng vì thế mà Liên hiệp quốc xuất hiện trễ mất mấy chục năm. Và thế giới bị thảm cảnh Thế chiến II.

Trước Quốc hội Do Thái, Tổng thống Mỹ không tiện nói đến lập trường thỏa hiệp của Thủ tướng Anh Neville Chamberlain với chế độ Đức quốc xã - một lập trường mà các sử gia về sau cho rằng dẫn tới hậu quả là khuyến khích tội ác của Hitler. Ông Bush phê phán lập trường của một chính khách Mỹ, và một chính khách trong đảng Cộng Hoà của mình. Ai bảo là tay cao bồi Texas này thiếu tế nhị đâu"

Nhưng, Obama vẫn cố vơ vào để cùng lúc tấn công cả Chính quyền Bush lẫn đối thủ McCain, và tự soi đèn vào mặt để đẩy Hillary Clinton vào bóng tối.

Nếu nhìn sâu xa hơn nữa, ta có thể nghi ngờ khả năng lãnh đạo của Obama, chẳng vì lập trường chủ hòa, phản chiến, hoặc nhu nhược mà vì dường như tay ba hoa này không hiểu gì về một quy luật cơ bản của Hoa Kỳ trong thời chiến. Đó là quy luật đánh và đàm....

Mọi cuộc chiến tranh đều phải kết thúc, và thường kết thúc bằng giải pháp chính trị, một kết quả của tiến trình vừa đánh vừa đàm. Vấn đề là đánh với ai và đàm phán về chuyện gì, hầu đạt mục tiêu chính trị là chấm dứt chiến tranh trong thế mạnh, hoặc ít tệ nhất.Chúng ta trở lại chuyện ngày nay, Iraq... và tiết mục đánh đàm.

Sau khi đảng Cộng Hoà thất cử và mất đa số tại Quốc hội vào cuối năm 2006, Chính quyền Bush lập tức thay đổi chiến lược. Bush đề nghị dồn quân đánh tới. Người ủng hộ quyết định ấy là Nghị sĩ John McCain sau nhiều năm phê phán Chính quyền về cách thức tiến hành cuộc chiến tại Iraq. Đại tướng David H. Petreaus, một viên tướng dày kinh nghiệm về chiến tranh nổi dậy và phá hoại, được giao phó nhiệm vụ thi hành chiến lược mới, trước sự hoài nghi của đại đa số dư luận. Kết quả ngày nay đã rõ ràng là tình hình Iraq có cải thiện, số tổn thất có giảm và chính quyền Iraq đang thoát xác để có thể đảm nhiệm vai trò lãnh đạo của mình. Giao tranh tại Basrah hay trong khu vực Sadr City của Baghdad càng minh chứng điều ấy, chứ không phải ngược lại, rằng Iraq thêm loạn và không thể ổn định cho Mỹ sớm rút quân như ông Bush đã hứa hẹn và nêu ra từ ngày 10 tháng Giêng năm ngoái khi đề nghị dồn quân đánh tới.

Sự tiến bộ tại Iraq mà một minh diễn của "quy luật đánh-đàm" và 10 năm sau khi đưa quân vào đây, Hoa Kỳ sẽ có thể rút trên thế mạnh, là lý luận của McCain.

Hãy cùng tìm hiểu sự việc đó. Tại Iraq, dân Shia đa số chưa hề có kinh nghiệm hay khả năng lãnh đạo vì xứ này nằm dưới sự thống trị của thiểu số Sunni và đảng Baath của Saddam Hussein. Tình hình trở thành hỗn loạn trong năm 2005 và suy đồi trong năm 2006 vì hai phe Sunni và Shia xung đột với nhau, do đòn khiêu khích của al-Qaeda - khủng bố xưng danh "Thánh chiến" sinh sống trong cộng đồng Sunni - do hoạt động phá hoại của phe Sunni chống Mỹ và do sự xúi giục cộng đồng Shia của Iran.

Khi dồn quân đánh tới từ mùa Xuân năm ngoái, Tướng Petreaus nhắm vào một mục tiêu chính trị: chứng minh với các lãnh tụ Sunni quyết tâm của Mỹ là sẽ không tháo chạy mà truy lùng khủng bố tới cùng. Lồng bên dưới là những hứa hẹn - chính trị - với các lãnh tụ Sunni lẫn đảng viên đảng Baath, rằng Hoa Kỳ sẽ hợp tác với họ để thứ nhất diệt trừ al-Qaeda và thứ hai, đảm bảo cho dân Sunni một vị trí vững mạnh hơn trong tương lai của Iraq.

Chiến dịch dồn quân đánh tới vì vậy là đánh với al-Qaeda để thuyết phục dân Sunni và hợp tác với các lãnh tụ Sunni để nói chuyện phải quấy với cộng đồng Shia và Iran ở đằng sau.Đây là một sự đảo ngược lập trường đáng kể của Hoa Kỳ sau khi vào Baghdad lật đổ chế độ Sunni của Saddam Hussein và giải tán đảng Baath. Nói cho rõ hơn, Mỹ dồn quân đánh tới để đàm phán với đối thủ cũ là các lực lượng Sunni. Không có 15 lữ đoàn tác chiến được tung vào những vùng xôi đậu trong cộng đồng Sunni, việc đàm phán không thành. Chiến lược dồn quân đánh tới đã có kết quả vì việc đàm phán ấy với các lãnh tụ Sunni, và cả đảng viên đảng Baath, nay sẽ được phục hồi tư thế trong một chính quyền của quốc gia Iraq - không cỏn nguy cơ al-Qaeda.

Lập trường chính thức của Chính quyền Bush vẫn là không nói chuyện hay tương nhượng quân khủng bố. Lập trường ấy vẫn có vẻ như không thay đổi vì al-Qaeda bị đánh rát và bị tê liệt dần nhờ thông tin tình báo do cộng đồng Sunni cung cấp, ngày một nhiều hơn và chính xác hơn.

Nhưng, lồng bên dưới chiến lược đó là việc Hoa Kỳ có nói chuyện và tương nhượng với đối thủ cũ là các nhóm dân quân Sunni và tàn dư của lực lượng Baath. Mà sở dĩ đàm phán với họ là để có thế mạnh khi cần nói chuyện lợi hại với cộng đồng Shia và các giáo chủ Tehran. Và đàm phán thành công chính là nhờ dồn quân đánh tới. Cũng nhờ vậy, Iran lập tức dịu giọng từ đầu năm ngoái và bắt đầu mặc cả để đàm phán với Hoa Kỳ. Cuộc đàm phán thứ tư đã bị tạm hoãn - như trong mọi cuộc mặc cả. Nhưng nếu Mỹ không có chiến lược dồn quân đánh tới, không đạt sự hợp tác của các lãnh tụ Sunni và cả sự liên minh của Mỹ với các chế độ Á Rập Sunni trong khu vực, và đề nghị hòa giải giữa Israel với Palestine - mục tiêu của hội nghị quốc tế tại Annapolis vào năm ngoái - các giáo chủ Iran chưa chắc đã muốn nói chuyện. Họ sẽ còn quậy thêm cho nát để Hoa Kỳ sẽ tháo chạy như cánh tả phản chiến của đảng Dân Chủ đang mong muốn.

Khi Jimmy Carter thăm viếng và bênh vực lực lượng khủng bố Hamas của dân Palestine, ông ta chỉ chứng minh mình là... Carter. Muôn đời ngây thơ, ngớ ngẩn và tự yêu mình một cách thái quá mà quên mất kinh nghiệm nhục nhã của ông ta với Iraq. Khi Barack Obama bảy tỏ cảm tình với  lực lượng Hamas và còn tuyên bố rằng ông sẵn sàng nói chuyện với các chế độ hung đồ, kể cả Iran, ông ta chỉ chứng minh sự non dại của mình. Nói chuyện gì, để đạt kết quả gì và có cái thế gì làm đối phương phải chấp nhận một giải pháp dung hoà" Không dám dụng binh mà chỉ đòi dụng lễ thì sẽ tiến tới chỗ lễ lạy!

Nếu đừng tự mê tiếng nói và dung nhan, mà cố vùng ra khỏi sự kiềm tỏa của các nhóm phản chiến trong đảng Dân Chủ, Obama phải nhìn thấy rằng Đại tướng Petraeus không là một nhân vật võ biền chỉ biết tới quy luật của hỏa lực. Ông ta đang đàm phán với kẻ thù! Tướng Petraeus hiểu rõ mục tiêu chính trị của phương tiện quân sự . Ông thực tế đàm phán với các lãnh tụ Sunni để đạt kết quả người ta đang thấy. Đó là chuyện ngày nay, sang chuyện ngày mai, ta nên nhìn qua một mặt trận tuyến. Khi được thăng chức lên vị trí Tư lệnh Quân khi Trung ương CENTCOM để chỉ huy cả hai chiến trường Iraq và Afghanistan từ cuối năm nay, Petraeus có thể sẽ lại nói chuyện phải quấy với 1) Chính quyền Pakistan và các tướng lãnh thân Taliban trong tổ chức tình báo ISI của xứ này, 2) các tộc trưởng Hồi giáo đang thực sự kiểm soát khu vực tự trị tại biên giới giữa Pakistan và Afghanistan và 3) cả các lãnh tụ Taliban đang dung chứa khủng bố al-Qaeda. Hãy tưởng tượng đến một trường hợp lịch sử giả tưởng: sau chuyến Hoa du năm 1972, và vụ oanh tạc Hà Nội, nếu Chính quyền Richard Nixon lặng lẽ tiến hành đàm phán với Mặt trận Giải phóng miền Nam và Chính quyền Saigon để tiến tới một giải pháp trái độn làm áp lực với Hà Nội" Lúc đó, Hà Nội sẽ theo đuổi chiến tranh được bao lâu" Giả thuyết ấy không thể xảy ra vì nhiều lý do, nhưng chủ yếu là vì dư luận phản chiến và đảng Dân chủ nằng nặc kéo áo Hành pháp để bỏ chạy. Y hệt như ngày nay.

Cục diện Afghanistan còn phức tạp hơn Iraq ngày nay và Việt Nam ngày xưa gấp chục lần vì tại đây, Hoa Kỳ và các thành viên của Minh ước NATO không có sức mạnh quân sự đáng kể: chỉ có 47 ngàn quân, bằng một phần ba tại Iraq cho một giải pháp chính trị còn gay go hơn. Chúng ta sẽ còn cơ hội trở lại vấn đề này vì trực tiếp liên quan đến những bất an của Pakistan và khả năng cưỡng hành rất yếu của NATO.

Đây mới là nơi mà Tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, dù là bất cứ ai, sẽ phải nhức đầu giải quyết. Với tài năng và quan điểm của Barack Obama, người đã từng chủ trương đưa quân vào Pakistan để truy lùng al-Qaeda, chúng ta nên e ngại giả thuyết bi thảm nhất trong cách giải quyết.

Bi hài!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.