...có ai thấy báo Trung Cộng tố Mao nói láo chưa" Hay báo VN nói Hồ Chí Minh nói láo...
Trong mấy tuần qua, báo chí Mỹ làm rùm beng vụ bà thượng nghị sĩ Hillary Clinton bị bắt quả tang … nói láo. Cứ như là chuyện động trời ghê gớm hết sức.
Số là trong kỳ tranh cử tổng thống hiện nay, bà Hillary cố gắng nhấn mạnh những kinh nghiệm chính trường của bà, so với anh thư sinh Obama. Để chứng minh rõ ràng mình là người từng trải, bà nhiều lần kể lể cuộc thăm viếng quân nhân Mỹ đang tham chiến tại Bosnia năm 1995. Theo lời kể có ghi âm thu hình thì chẳng những đây là lần đầu tiên một vị đệ nhất phu nhân Mỹ đi thăm các chiến lính ngoài hỏa tuyến, mà còn là vượt qua cuộc đột kích kinh hoàng trong vòng lửa đạn.
Máy bay của bà phải lách qua lách lại để tránh đạn phòng không từ dưới bắn lên. Sau khi tàu bay đáp xuống phi trường thì bà và cô con gái yêu đã phải cúi rạp mình chạy trối chết từ phi đạo vào phòng tiếp tân.
Mấy anh ký giả khúc mắc đi tìm hiểu sự thật và moi ra được một đoạn phim thời sự quay cảnh bà Clinton đến Bosnia. Chẳng thấy đạn bắn hay bom nổ gì, mà chỉ thấy bà tươi cười xuống thang máy bay, được một cô bé xinh xắn tặng một vòng hoa, bà vỗ về thăm hỏi em, rồi từ từ cùng đoàn tùy tùng đi vào phòng tiếp tân.
Khi được phỏng vấn thì anh phi công lái máy bay cho bà hôm đó lấy làm ngạc nhiên và nói “tôi đâu có thấy ai bắn và cũng đâu có lách tàu bay gì đâu”. Bà cũng chẳng phải là đệ nhất phu nhân đầu tiên thăm lính ngoài chiến tuyến. Trước đó, bà Eleanor Roosevelt đã qua chiến trường Âu Châu thời đệ nhị thế chiến, và bà Patricia Nixon đã thăm lính Mỹ tại Việt Nam.
Bị bắt quả tang không chối cãi được, bà Hillary bối rối tuyên bố là lỡ “nói lộn” (I misspoke)"!
Câu chuyện trên cho thấy bà Hillary hiển nhiên là đã bóp méo sự thật với mục đích tự đánh bóng cá nhân mình. Đây không phải lần duy nhất bà nói láo. Dick Morris, một người bạn chí thân từ hơn 30 năm nay của cựu Tổng Thống Bill Clinton, cũng là cố vấn giúp cho Clinton đắc cử hai lần, là người hiện nay chống đối bà Hillary kịch liệt. Ông đã liệt kê ra hàng mấy chục thí dụ về thành tích nói láo của bà Hillary trong quá khứ.
Công bằng mà nói, bà Hillary không phải là chính trị gia duy nhất nói láo. Đúng ra phải nói rằng chính trị gia mà không nói láo mới là chuyện lạ.
Trong quá khứ, Trung úy Hải quân John Kennedy, Thiếu úy phi công George Bush (cha), và Trung úy Hải quân John Kerry đều đánh bóng chiến tích của mình một cách sỗ sàng. Ông Nixon thì nói láo đến độ mất job. Ông Reagan cũng khoe đã góp công trong cuộc giải phóng các trại tập trung nhốt dân Do Thái của Hitler, dù lúc đó ông chỉ là ký giả đến chụp hình và viết bài phóng sự. Ông Clinton thì dĩ nhiên ai cũng biết ông đã ăn nói vặn vẹo như thế nào trong vụ lem nhem với cô em Monica. Ông Al Gore thì khoe đã phát minh ra internet trong khi ông chỉ góp công ra một điều luật dễ dàng hóa việc phát triển hệ thống internet thôi.
Trong cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc hiện nay, ông Obama cũng chẳng chịu thua bà Hillary bao nhiêu về tài huêng hoang.
Ông khoe đã học hỏi được rất nhiều về những khúc mắc của bang giao quốc tế khi ông còn ở Indonesia. Lúc đó ông chưa tới mười tuổi. Ông cũng kể công là ông đã đưa ra được luật thanh tra các nhà máy điện nguyên tử để bảo đảm an toàn cho dân Mỹ, nhưng lại “quên” không nhắc là dự luật này khi đưa ra trước quốc hội của tiểu bang Illinois thì đã chẳng có ai hậu thuẫn, kết quả bị đi vào lãng quên, không hề biểu quyết thành luật!
Ông Obama cũng là một con chiên ngoan đạo. Từ hơn hai mươi năm nay, Chủ nhật nào cũng đi nhà thờ nghe ông mục sư Jeremiah Wright giảng. Ông mục sư này như là người cha tinh thần của Obama, đã đứng ra chủ hôn cho đám cưới của Obama. Gần đây, ông mục sư này bị khui ra là đã trường kỳ chống… Mỹ. Những bài giảng của ông đều là một chuỗi dài những lời nguyền rủa nước Mỹ và dân Mỹ da trắng. Mục sư Wrigth công khai hò hét “God damn America” thay vì “God bless America”. Ông mục sư này cũng lớn tiếng tố giác chính phủ Mỹ phát minh ra bệnh AIDS với mục đích diệt chủng dân da đen.
Được hỏi về vụ này thì lúc đầu ông Obama chối bay “tôi không hề nghe hay biết gì về những lời giảng đó”. Sau khi báo chí thắc mắc tại sao ông có thể nghe ông “cha tinh thần” này giảng liên tục trong hơn hai mươi năm mà lại không nghe không biết gì về những lời nguyền rủa của ông ta, thì ông Obama mới đành phải thú nhận có nghe, có biết.
Hành động và lời nói chính trị thường ít khi đi đôi với sự thật. Chẳng phải ở cấp tổng thống không, mà cấp nào cũng vậy.
Điển hình gần đây là câu chuyện ông Thống đốc Tiểu bang New York, Eliot Spitzer. Ông này là cựu công tố viện, nổi tiếng là thanh liêm trong sạch, không thể hủ hoá được. Kiểu như Bao Công ngày xưa vậy. Mà ông này còn hơn Bao Công. Nhân vật Bao Thanh Thiên của văn hoá huê dạng Trung Hoa chỉ ngồi một chỗ, chờ người ta đến kiện cáo mới đi truy cứu và xét xử. Ông Spitzer thì chuyên môn đi lùng bắt kẻ gian, từ các băng đảng mafia cho đến các ổ mãi dâm. Tiếng tăm ông nổi như cồn, và cách đây hai năm, ông dễ dàng đắc cử Thống đốc New York, được coi như ngôi sao đang lên của đảng Dân Chủ, có thể là ứng viên tổng thống tương lai không chừng.
Nhưng coi dzậy mà hổng phải dzậy.
Cách đây vài tuần, ông bị FBI bắt quả tang có liên hệ mật thiết với một ổ mãi dâm hạng sang ở Washington D.C. từ nhiều năm qua, từ những ngày ông còn đầu tắp mặt tối đi lùng các ổ mãi dâm ở New York. Mỗi lần “tham quan” các em, ông đã phải chi sơ sơ có hơn bốn ngàn đô cho một tiếng đồng hồ “hàn huyên”. Tổng cộng do FBI kiểm kê được thì ông thống đốc gương mẫu này đã chi hơn tám chục ngàn đô trong mấy năm qua để nuôi các em. Số tiền FBI không kiểm kê được thì không ai biết là bao nhiêu. Chỉ tội nghiệp bà vợ phải đứng bên cạnh, cúi gầm mặt nghe ông thú tội trước báo chí.
Xin đừng buồn, đây chính là mặt trái và mặt sáng của chế độ dân chủ.
Trong một chế độ độc tài, chỉ có một người hay một số ít người biết nhau hết, bổ nhiệm lẫn nhau, tạo phe đảng vây cánh cho nhau. Vì là phe đảng với nhau nên dĩ nhiên mọi người đều biết nhau hết nên chẳng thể hay chẳng cần khoe khoang khoác lác, và rồi cũng sẵn sàng che giấu tội lỗi cho nhau. Trong cái chế độ dân chủ kiểu Mỹ, các trách vụ quan trọng đều do dân bầu, tức là phải làm sao cho cả triệu người chẳng biết mình là ai mà vẫn bầu cho mình. Nếu nói chính sách không thôi thì nhàm chán, hay cũng giống nhau hết, khó câu phiếu. Đành phải che giấu cái xấu, thổi phồng, đánh bóng, và khoác lác, để mình nổi bật hơn người.
Chiến thuật này đã tỏ ra rất hữu hiệu. Cả triệu người làm sao họ biết mình là ai, đã làm gì" Làm sao kiểm chứng hết được" Mà thỉnh thoảng nếu có xẩy ra tai nạn, bị lòi đuôi vài chuyện thì cũng chẳng sao vì có biết bao nhiêu chuyện khác đã lọt qua ải mà không bị lộ. Trong chính trị, nói phét tựu trung lại vẫn có lợi hơn là chân chỉ hạt bột.
Như vậy có phải cái chế độ tư bản tự do ngôn luận, tự do nói láo và hủ hóa này cần phải được dẹp bỏ và thay thế bằng một chế độ độc tài trong đó không có cảnh chính khách nói láo nữa chăng" Đã có ai thấy báo Trung Cộng tố giác Mao nói láo chưa" Hay báo Việt Nam nói Hồ Chí Minh nói láo" Hay báo Cuba nói Fidel Castro nói láo"
Cũng không hẳn phải là vậy.
Trong các chế độ độc tài -từ phát xít đến cộng sản hay quân phiệt- các chính trị gia cũng nói láo như ai thôi. Thậm chí còn nói láo nhiều hơn nữa vì tha hồ nói láo và làm láo, chẳng ai dám hé môi khui ra, chỉ sợ mang họa vào thân. Có khi cả tập thể lãnh đạo nói láo và làm láo năm này qua năm khác, thế hệ này qua thế hệ khác. Chuyện nói láo còn được ghi vào sử sách bắt con cháu đời sau học và ghi vào đầu như là những sự thật lịch sử.
Ít ra trong cái chế độ tư bản đầy tự do ngôn luận và hủ hóa, chuyện nói láo dễ có cơ hội bị bại lộ hơn. Có các chính trị gia đối lập sẵn sàng khui chuyện xấu ra. Cũng có mấy anh ký giả chuyên đi lùng tin giựt gân moi ra.
Cái thảm cảnh của chế độ tự do ngôn luận là khi chính những người có trách nhiệm phanh phui sự thật lại cũng… nói láo hay bóp méo sự thật luôn. Đó là trường hợp của báo chí Mỹ về cuộc chiến tại Việt Nam.
Những ký giả Mỹ theo dõi cuộc chiến tại Việt Nam đã thấy chính quyền của các TT Johnson và Nixon đều không nói hết sự thật. Họ khui ra được nhiều điều dối trá để dần dần mất niềm tin nơi chính quyền, đâm ra ghét chính quyền, quay ra chống chiến tranh vì thấy không còn chính nghĩa. Rồi cuối cùng họ cũng để mất luôn tính trung thực của một ký giả. Với tư cách là ký giả viết phóng sự tin tức về cuộc chiến, họ không còn cái nhìn khách quan nữa mà biến ngòi bút của mình thành vũ khí chống cuộc chiến.
Cái tinh thần “phản chiến” của họ tự nó không đáng trách vì con người bình thường, ai cũng có tư tưởng phản chiến hết - không ai ưa thích chiến tranh cả. Nhưng đáng trách là kiểu phản chiến của giới ký giả cấp tiến Mỹ lại... phản chiến một chiều. Thổi phồng những tin bất lợi cho chúng ta (tham nhũng, Mỹ Lai,…), phớt lờ những thành công của ta (Mậu Thân, An Lộc, …), giấu nhẹm hay khỏa lấp những tin bất lợi cho địch (thảm sát ở Huế, tính cách công cụ của Mặt Trận Giải Phóng,…), để chứng minh lập trường chống chiến tranh của mình là đúng.
Ai cũng biết chính trị và sự thật không đi đôi, khó tránh được.
Nhưng có cái nói láo vớ vẩn và cái nói láo chết người. Cái bóp méo sự thật của báo chí Mỹ tại Việt Nam mới là quan trọng vì đi đến hậu quả là đưa cả một nước vào tù, cả triệu người bỏ của chạy lấy người, cả ngàn người chết oan trong “trại cải tạo” hay trong rừng rậm hay trên biển khơi.
Chứ mấy câu nói láo vặt của bà Hillary thì chẳng chết ai, mà chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Có gì đâu mà báo Mỹ phải làm to chuyện! (12-4-08)